Thời đám đông: Luận giải lịch sử về tâm lý học đám đông – Serge Moscovici
Tâm lý học đám đông, các cuốn sách của Le Bon chỉ giỏi thích về các hiện tượng bên ngoài của tâm lý học quần chúng và cách ứng dụng nó vào thực tế mà chưa có 1 cơ sở lý luận và các giải thích khoa học vững chắc cho nó. Cuốn sách này là các nghiên cứu chuyên sâu hơn về chủ đề tâm lý học đám đông và cơ sở khoa học để giải thích điều này.
- Khoa học về đám đông
- Cá nhân và đám đông
Con người trước thời kỳ Phục Hưng bị phụ thuộc chặt chẽ vào 1 nhóm hay 1 gia đình với những bổn phận ràng buộc chặt chẽ. Sau Phục Hưng, con người trở nên độc lập hơn. Họ có tư tưởng và tình cảm riêng, có quyền và tự do hơn và cái tôi dần nảy sinh và đã làm thay đổi lịch sử nhân loại. Co người có sự đánh giá, nhận xét riêng với tư duy lý trí của mình. Nhưng trong 1 số hoàn cảnh họ lại cư xử không có sự lý trì mà bị chạy theo đám đông với sự vô tri và phục tùng. Đây là điều vẫn thường xảy ra và là 1 bí ẩn lớn nhất của mọi hành vi. Khi tách riêng ra từng cá thể thì đó có thể là 1 người xuất sắc. Nhưng khi hợp họ lại thành 1 nhóm đoàn thể thì thường họ lại trở thành những kẻ ngu ngốc, bị dẫn dắt theo ý muốn.
Cứ mỗi khi mọi người tụ tập lại với nhau thì đám đông nhanh chóng bắt đầu nổi lên và hiện rõ. Họ hòa trộn vào nhau, bị biến đổi. Họ tạo nên 1 sự cộng đồng chung áp chế cái riêng của họ; họ bị chi phối bởi 1 ý chí bầy đàn buộc ý chí riêng của họ im tiếng. 1 số thì cảm giác mình bị loại khỏi đám đông, 1 số thì bị kích thích tham gia tích cực vào nó và bị ám ảnh với nó. Tất cả những phản ứng này là đặc trưng cho ảnh hưởng của đám đông.
Các nhóm người và các khối đám đông sống dưới tác động của những cảm xúc mạnh, những cơn bùng nổ hiệu ứng quá mức. 1 cá nhân đơn độc sẽ không thấy mình bị biến đổi sâu sắc. Hắn trở thành kẻ khác mà không phải bao giờ cũng ý thức được điều đó khi ở trong đám đông.
Mặc dù cá nhân là lý trí, nhưng họ dù không muốn vẫn phải thu nạp những chuyển động và tình cảm mà hắn được gợi ý vào tâm trí mình. Hắn cong khai gây ra những vụ phản đối bừa bãi mà thậm chí không biết nguyên nhân và mục đích của chúng là gì trong khi vẫn đinh ninh là mình biết. Họ thực tế đã có sự đồng thuận chung thành sự thật lý tính. Sự ám thị hoặc ảnh hưởng trở thành hiện tượng chịu trách nhiệm cho sự biến hóa khác thường này. Đây là 1 kiểu tác động đến ý thức: 1 mệnh lệnh hay 1 thông báo nào đó có sức mạnh thuyết phục buộc phải chấp nhận 1 tư tưởng, 1 cảm xúc, 1 hành động mà về mặt logic con người không có chút cơ sở duy lý nào để chấp nhận. Khi đó mọi người có ảo tưởng là tự mình chấp nhận quyết định mà không hề biết mình là đối tượng của sự tác động hoặc sự ám thị.
Ám thị này đều đòi hỏi: sự từ bỏ tư duy logic, thậm chí sự trốn chạy nó, và sự ưa thích tư duy phi logic; và sự chia rẽ cái duy lý và cái phi lý trong con người, trong cuộc sống bên trong và bên ngoài của nó. Sẽ có sự va chạm giữa cái tôn của bản thân với cái tôn xã hội của anh ta.
- Sự trỗi dậy của đám đông
Vào cuối thế kỷ 19, sự ám thị đã trở thành lan tràn ra như 1 hiện tượng. Nó làm sụp đổ các chế độ cũ tiền tư bản. Cái thế giới bền vững của gia đình, láng giềng, làng mạc bị rạn nứt và bắt đầu tan rã. NÓ ụp đổ kéo theo cả những nền tảng chính trị và ton giáo truyền thống, cũng như các giá trị tinh thần sụ đổ. Bị bứt khỏi những nơi chốn thân thuộc, khỏi nền móng của mình, những con người cố kết lỏng lẻo với nhau trong những tập hợp người ở các thành trị trở thành đám đông.
Quá trình cơ khí hóa nhanh chóng nền công nghiệp tượng trưng bằng đầu máy hơi nước, và ự tập trung đàn ông, đà bà, trẻ em biến nhà máy thành đám đông, thành 1 cỗ máy phục tùng chủ doanh nghiệp bóc lột, đá biến đường phố trở thành trường cạnh tranh. Các mẫu thuẫn giầu nghèo bùng phát dữ đội. Hậu quả là đã tạo 1 giai cấp công nhân hùng hậu, bất mạn, nghèo đói và sẵn sàng kích hoạt sự ám thỉ để đi theo đám đông nhằm gây sức ép lên chính quyền phải nhậy cảm đối với ý chí của họ và phải nhanh chóng có những nhượng bộ với các yêu sách của họ. Vậy là sự xuất hiện của 1 kiểu con người mới, kiểu con người đám đông bị phụ thuộc hoàn toàn vào kẻ khác và do trào lưu tuân thủ hết sức rộng lớn đúc nên, đã được loan báo.
Khi tụ lại thành bầy đàn xã hội, say sưa với các sức mạnh bí ẩn phát ra từ mọi đám đông bị kích thích, mọi người liền rơi vào tình trạng bị ám thị giống như khi dùng ma túy hay bị thôi mien. Vafkhi đã ở vào tình trạng đó thì họ dễ tin tất cả những gì người ta nói và làm tất cả những gì người ta bảo làm. Họ sẽ lệ thuộc vào mỗi lời kêu gọi, dù nó vô nghĩa đến đâu. Bất luận thế ào thì các phản ứng của mọi người cũng sẽ trở nên nhạy hơn, điều này thấy rõ ở các cuộc hành hương và các cuộc diễu hành yêu nước, các festival âm nhạc và các cuộc hội họp chính trị.
- Làm gì khi quần chúng hiện diện?
Cái mới mẻ nhất của chính trị gần đây là sự thống trị của quần cúng. Cá nhân đã chết, quần chúng lên ngôi. Kết quả của cuộc đấu tranh kiên trì và quyết liệt là quần chúng dường như ở đâu cũng giành được chiến thắng đáng kinh ngạc, không thể đảo ngược. Chính ọ đặt ra những vấn đề mớ và buộc nghĩ ra những câu trả lời mới, bởi vì sức mạnh của họ là 1 thực tế từ nay phải tính tới.
Tâm lý học đám đông được coi là 1 hướng đi để giải quyết mê cung các quan hệ quyền lực mà khi biết nó đầy đủ thì cả kẻ bị trị lẫn người cai trị sẽ không bị lạc lối trong đó. Khi con người tụ lại cùng nhau và trộn lẫn vào nhau, mọi người mất đi mọi tính phê phán. Lương tâm họ lùi bước trước sức mạnh của các ảo tưởng, giống như cái đập bị nước tràn qua.
Bị đặc trước tình trạng không có khả năng phân biệt cái thật và cái ảo tưởng tượng, cái nhìn thấy thực tế và cái dương như là, họ mất luôn năng lực chấp nhận quyết định đúng, 1 quyết định đúng đắn nhất rong các suy luận được dudwa ra cho họ. Vậy là những con ngươi tạo thành đám đông được dẫn dắt bởi trí tưởng tượng vô bờ bến, bị kích thích bởi những cảm xúc mạnh mẽ, không liên quan gì đến mục đích rõ ràng. Họ có 1 tố chất kinh ngạc là tin vào những gì người khác nói với họ. Thứ ngôn ngữ duy nhất họ hiểu là thứ ngôn ngữ loại trừ lý trí và hướng đến khêu gợi tình cảm. Họ nhìn nhận mọi thứ qua cặp kinh mầu hồng, nhìn thấy mọi thứ sai lệch so với thực tế. Các ham muốn và huyền thoại của họ được củng cố bởi các hành động bốc đồng của họ nhằm thực hiện được mục tiêu, mọi thứ logic đều không tồn tại trong suy nghĩ của họ.
Khi quần chúng hiện diện, nhiệm vụ của chính trị là tổ chức họ. có 2 cách làm họ chuyển động: dục vọng và đức tin, do đó cần phải tính đến cả cái này và cái kia. Hễ cứ khi nào mọi người tụ tập lại với nhau là họ cùng bị xâm chiếm bởi cảm xúc như nhau. Họ thống nhất ở 1 niềm tin cao cả nào đó. Họ đồng nhất mình với nhân vật lôi họ khỏi cảnh đơn động và thần tượng nhân vật đó. Đây là quá trình biến 1 tập hợp các cá nhân thành 1 cá nhân tập thể.
Quần chúng luôn luôn tìm ra thủ lĩnh cho họ để họ tôn thờ, họ đi theo. Dù họ có thành lập các đảng phái chính trị, các phong trào tư tưởng hoặc các cơ quan có khả năng kiểm soát quần chúng thì chúng đền sớm hay muộn sẽ đều sắm lấy 1 lãnh tụ nào đó còn sống hay đã chết để tôn thờ và đi theo vị thủ lĩnh đó. Các thủ lĩnh đưa lại cho đám đông 1 cách đơn giản và trực quan câu trả lời cho các câu hỏi của họ, đưa lại tên gọi cho đám đông vô danh. Không phải bằng lý trí, suy tính, mà sâu hơn nhiều là bằng trực giác, đám đông bám theo thủ lĩnh như chân lý tuyệt đối, như quà tặng của 1 thế giới mới, đám đông cuồng nhiệt thay đổi niềm tin va được biến cải theo nghãi đầy đủ. Nguồn năng lược cảm xúc đẩy họ lên phía trước và cấp cho họ lòng dung cảm chịu đựng đau khổ cũng như thái độ vô cảm cần thiết để tạo nên bạo lực. Họ xây dựng các ước vọng cho đám đông và thực hiện các ảo tưởng đó với niềm tin mãnh liệt. Khi các ảo tưởng tiêu tan, thì thần tượng sụp đổ và đám đông sẽ bị trống rộng vì không biết theo ai nữa, không biết lệ thuộc vào ai nữa, không biết hy sinh thân mình vì cái gì nữa.
Như vậy, phải làm gì khi quần chúng hiện diện? có 2 việc là: tìm ra lãnh tụ trong môi trường của họ và điều khiển họ bằng cách khơi dậy những đam mê, niềm tin và ảo tưởng của họ. Sự ám thị đã tạo ra quần chúng đám đông, và thủ lĩnh đã làm cho đám đông đó chuyển động.
- Chuyên chế phương Đông và chuyên chế phương Tây
Lịch sử nhân loại cho thấy 1 hiện tượng thú vị khi mà sự chuyên chế ra đời hàng nghìn năm trước và nó xuất hiện ở mọi nơi trên trái đất trong mọi nền văn minh từ cổ xưa tới hiện đại. Sự chuyên chế này được dẫn dắt bởi 2 nền văn minh cổ xưa nhất là văn minh Trung Hoa và văn minh Ai Cập.
Khi xã hội hiện đại ra đời, xã hội quần chúng này sẽ hướng tới sự ổn định theo cách nào đó. Việc ổn định này thường sẽ thực hiện bằng 2 yếu tố nòng cốt: bình đẳng và tự do. Sự ra đời quyền bình đẳng đã biến mọi con người đều có vai trò như nhau và từ dó ra đời quần chúng. Họ có các quyền bỏ phiếu ngang nhau và 1 các quyền bình đẳng khác. Yếu tố bình đẳng cơ bản là yếu tố quan trọng nhất và mọi cách khác đều để đảm bảo nó. Vì vậy các xã hội thường hy sinh yếu tố tự do này bằng cách thuyết phục hoặc áp buộc mọi người từ bỏ nó. Các mô hình trao quyền độc tài cho 1 người hay 1 sự tự do vô chính phủ đều sẽ quay về kết quả tạo ra sự độc tài mới. Nó có thể là dân chủ độc tài hay độc tài dân chủ. Các nền quân chủ phương Đông tập trung kiểm soát các nhu cầu thiết yếu (nước, thức ăn,..) trong khi các nền quân chủ phương Tây tập trung kiêm soát niềm tin, lý tưởng, đảng phái.
- Le Bon và nỗi sợ đám đông
- Gustave Le Bon là ai?
Le Bon là người đã đưa ra khái niệm tâm lý học đám đông và là 1 trong những bộ óc vĩ đại nhất thế giới về nghiên cứu các môn khoa học xã hội. Ông sinh năm 1841 tại vùng Normandie và mất năm 1931 tại Paris. Ông khởi đầu là 1 vị bác sĩ tỉnh lẻ thích ăn ngon, nhưng sau đó rời bỏ công việc để dấn thân vào công việc truyền bá khoa học. Hoàn cảnh ông lớn lên có sự biến động mạnh mẽ từ khi có các mầm mống sự tiến bộ, tới đế chế thứ 2, cuộc cách mạng công nghiệp, các cuộc chiến tranh, và các chủ nghĩa xã hội, các nền dân chủ bùng nổ ở châu Âu. Cuộc sống ông đủ dài để trải nghiệm rất nhiều vấn đề xã hội hiện tại.
Mô hình cộng hòa Pháp mặc dù mong muốn học theo Anh nhưng không thành công và nó mang nhiều nét của nhiều mô hình khác nhau. Nó đại diện cho nhiều tầng lớp từ ioiws thương gia bậc trung, viên chức, nông dân, công nhân. Ở đây đã sản sinh ra khái niệm tâm hồn đám đông mà Le Bon phát hiện ra và miêu tả nó. Tư tưởng của ông đẫ thu hút được rất nhiều nhà khoa học đương thời chấp nhận và làm say mê nhiều tầng lớp lãnh đạo vào thập kỷ 20 của thế kỷ 20.
- Machiavelli của xã hội đại chúng
Tác phẩm “Tâm lý học đám đông” của Le Bon là tác phẩm vô cùng thành công trong tâm lý học, trong xuất bản khi ngay sau khi phát hành đã gây được tiếng vang lớn, liên tục được tái bản, trích dẫn, nghiên cứu mãi cho tới ngày nay vẫn không dứt. Le Bon là người đi tiên phong về quần chúng và hành vi tập thể, theo sau ông nhà nhà bác học Tarde và 2 ông thường được nghiên cứu cùng với nhau về chủ đề này và đều có đóng góp lớn khai sinh ra mảng nghiên cứu này của khoa học xã hội.
Từ sự khai phá ra thuật ngữ Tâm lý học đám đông, tư tưởng của Le Bon đã gây ảnh hưởng lớn tới nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng khác, như Freud với phân tâm học, Jung với tâm lý học quần chúng. Cả 2 ông đều có sự đồng ý rằng cá nhân trong đám đông bị rơi xuống mức nguyên thủy về trí tuệ và cảm xúc.
Các nhà tâm lý học sau đó thường chê trách Le Bon vì họ đề cai sự độc lập tư duy, tư duy logic của mọi người và lý luận rằng mọi người sẽ không hành động như trong đám đông thời cách mạng Pháp đã từng, thời kỳ mà Le Bon lấy ra là nghiên cứu về tâm lý học đám đông.
Tâm lý học đám đông của ông cũng là tiền đề nền tảng cho đế chế thứ 3, cho các nhà lãnh đạo quân đội trong việc động viên mọi người đăng ký, tăng cường kỹ luật của các đạo quân. Các ý tưởng về thủ lĩnh cũng được các tướng lĩnh và nhà cầm quyền khắp nơi tin tưởng học thuyết của Le Bon và vận dụng nó vào việc quản lý điều hành đất nước. Đó là những người như De Gaulle, Mussolini và Hitler. Tất nhiên các lý thuyết phân biệt chủng tộc của ông là không chính xác và nó đã được Hitler vận dụng vào thực tế và chứng minh sự thất bại của nó.
- Bốn lý do im lặng
Le Bon mặc dù có đóng góp lớn nhưng lý thuyết và danh tiếng của ông không thật sự tốt trong giới học thuật từ xưa tới nay và thường bị lờ đi cho vào im lặng. Điều đó do 4 lý do sau:
Thứ nhất, sách của ông dạng bình dân khơi gợi trí tưởng tượng của độc giả, nói ra cái đọc giả muốn nghe mà thiếu sự hàn lâm, chau chuốt cho các đối tượng học giả. Họ chê bai Le Bon viết 1 cách hời hợt. Ông có tài phát hiện ra tâm lý học đám đông, nhưng lại suy luận quá thiên vị, quan sát thì nghèo nàn, rất thiếu chiều sâu.
Thứ hai, ông bị hệ thống đại học Pháp bài xích vì ông là kiểu tự do tư sản. Ông tự học, tự nghiên cứu và không qua trường lớp, mong muốn vào viện hàn lâm và dậy đại học của ông bị từ chối cho tới hết đời và ông có sự bài xích nghị viện rất mạnh.
Thứ ba, Lý thuyết của ông được các đảng phái, hệ thống tuyên truyền áp dụng vào thực tế nhưng họ không muốn nói thẳng ra là dựa vào tâm lý học đám đông của ông để thao túng giật dây phía sau tạo ra lợi ích cho chính mình.
Thứ tư, các tư tưởng của ông được truyền vào hệ tư tưởng của chủ nghĩa phát xít và nó được hệ thống phát xít ở Italia, Đức tuyên truyền ủng hộ mạnh mẽ và thực sự áp dụng nó vào thực tế làm người ta thấy đây là hệ tư tưởng lệch lạc gây nguy hại cho xã hội. Mặc dù ông luôn khẳng định chủ nghĩa độc tài chỉ tốt trong lúc khủng hoảng, nhưng nếu duy trì nó quá dài sẽ lại giết chết xã hội nhưng nó không thực sự được người ta quan tâm đúng mức về điều này.
- Sự khám phá ra đám đông
Định nghĩa về đám đông ban đầu nhìn chung có nhiều cách khác nhau nhưng đều mang các ý nghĩa tiêu cực. Đám đông đã mở đường cho mình đi vào chính trị thông qua phương diện phạm tội. Vì sự phạm tội này nó lý giải các hành động bạo lực của đám đông. Những hành động khủng bố và những bản năng phá hoại. Đặc biệt khi nền tảng xã hội suy yếu và bị lung lay thì sức mạnh đám đông càng bộc lộ 1 cách mạnh mẽ và gây nguy hiểm cho xã hội.
Tới khi Le Bon định nghĩa, ông dịnh nghĩa đơn giản hơn. Đặc điểm chính của đám đông là sự hòa lẫn các cá nhân trong 1 tinh thần và tình cảm chung, làm mờ đi những khác biệt cá nhân và hạ thấp năng lực trí tuệ. Mỗi người đều tìm cách giống với người bên cạnh mà hắn đang giao tiếp. Đám đông bằng sự đông đảo của mình cuốn hắn đi giống như nước thủy triều lên cuốn theo sỏi cát trên bãi biển. Khi dó tất cả đều như nhau, bất luận những người tham dự thuộc giai cấp xã hội nào, có học vấn và văn hóa ra sao.
Sự biến mất của đặc điểm cá nhân, sự hòa tan các cá nhân vào đám đông,…, diễn ra như nhau, độc lập với mức độ giầu có hay trình độ văn hóa của các thành viên trong đó. Sẽ là sai lâ nếu cho rằng tầng lớp có học hoặc địa vị xã hội cao sẽ kháng cự lại tác đông của tập thể tốt hơn những tầng lớp thất học hoặc ở địa vị thấp.
- Sự thôi miên trong đám đông
Những sự chuyển biến tâm lý của các nhân khi ở trong nhóm xét về mọi mặt là giống như khi nó bị thôi miên. Những trạng thái tập thể là tương tự những trạng thái thôi miên. Dưới tác động của sự thôi mien này, mọi người bị mất ý thức và ý chí. Họ trở thành những kẻ mộng du hoặc người máy. Họ bị phụ thuộc vào các ám thị của người dẫn đầu điều khiển họ suy nghĩ, nhìn ngó và hành động theo cùng 1 hướng. Kết quả là sinh ra 1 cái giống như người máy xã hội, nó không biết sáng tạo hay xét đoán, nhưng lại có thể ham thích những việc tồi tệ mà con người bày ra trước mắt. Đám đông khiến chung ta bị đe dọa bởi dường như chúng ta sống trong 1 thế giới khác. Chúng dường như bị cầm tù bởi những ảo ảnh giày vò chúng.
Thôi miên đối với tâm lý học đám đông là mô hình cơ bản của các hoạt động và phản ứng xã hội. Người câm đầu là tâm chấn, từ đó phán ra đợt sóng đầu tiên. Sau đó những đợt sóng đồng tâm khác thay thế nó, truyền tư tưởng đó đi ngày càng xa hơn trong cơn động đất. Sự thôi miên trên quy mô lớn thì đòi hỏi cần có sự dàn dựng. Nó cần có các thủ pháp tuyên truyền để truyền bá.
Tâm lý học đám đông có 3 sự khám phá mới mẻ: quần chúng là 1 hiện tượng xã hội; sự ám thị lý giải sự hòa tan của các nhân vào đám đong; thôi miên là mô hình hành động của người câm đầu đối với quần chúng.
Le Bon vạch ra sơ đồ tâm lý học đám đông gồm 6 yếu tố sau:
- Đám đông theo nghĩa tâm lý học là 1 tập hợp người có sự cộng đồng về tâm lý, chứ khôn gphari là đám người dòn tụ lại 1 chỗ
- Cá nhân hành động co sý thức, còn đám đông là vô thức.
- Đám đông là bảo thủ, dù cho cách thức hành động của chúng có tính cách mạng. Chúng luôn kết thúc bằng sự khôi phục cái chúng đã lật đổ, bởi đối với chúng, cũng như đối với tất cả những ai ở trong trạng thái thôi mien, quá khứ quan trọng hơn hiện tại rất nhiều
- Quần chúng, bất kể văn hóa, học thuyết, hay địa vị xã hội của họ thế nào, đều cần đên ssuwj ủng hộ của thủ lĩnh. Thủ lĩnh không thuyết phục họ bằng lý lẽ chứng cớ, không áp đặt bằng sức mạnh. Ông ta giống như nhà thôi mien dẫn dắt họ bằng quyền uy của mình
- Truyền thông có 1 cơ sở phi lý, có những đức tin tập thể và có 1 công cụ là sự ám thị từ gần hoặc xa. Phần lớn các hành động của đám đông là hệ quả của đức tin. Tuyên truyền hướng đến quần chúng cần phải dùng thứ ngôn ngữ bóng gió, linh hoạt và có hình ảnh, với những công thức đơn giản và có tính mệnh lệnh
- Chính trị với mục đích điều khiển quần chúng (đảng phái, giai cấp, dân tộc) cần phải là thứ chính trị có óc tưởng tượng. Nó cần phải dựa trên 1 tư tưởng tối cao (cách mạng, tổ quốc), thậm chí là 1 tư tưởng cố định mà người ta có thể gieo vào và phát triển trong ý thức của mỗi con người – quần chúng cho đến biến được nó thành ám thị. Do đó tư tưởng ấy biến thành hình ảnh và hành động tập thể.
- Đời sống tâm lý của đám đông
Đám đông ở trong trạng thái giống như thôi miên, cái chất cuốn hút lạ lùng này gợi nên ở mỗi người ước muốn mù mờ được hòa lẫn vào đám đông đại chúng. Nó giải thoát cá nhân khỏi sự cô độc. Điề này chia thành 2 phần là hữu thức và vô thức. Phần hữu thức được hình thành tùy từng người trong khi phần vô thức thì hiện hữu ở mọi người đồng đều trong xã hội. Cái vô thức này là cái chung trong chúng ta, nó chất đầy những bản năng, ham muốn, đức tin.
Khi chúng ta ở trong đám đông và có trạng thái ám thị lẫn nhau. Ta có xu hướng xích lại gần nhau hơn với các đặc điêm chung trong vô thức của nhau. Cái hữu thức bị xóa nhòa dần đi và chúng ta chỉ còn cái vô thức ngự trị trong suy nghĩ và hành động của mình.
Như vậy, sự tiêu tan của nhân cách hữu thức, sự thống trị của nhân cách vô thức, sự định hướng thông qua đường lây lan những tình cảm và tư tưởng theo cùng 1 hướng, xu hướng nhanh chóng biến những tư tưởng được ám thị thành hành động đã tạo ra đặc điểm của cá nhân trong đấm đông.
Tư duy lý trí mới cần các chứng minh, còn tư duy đám đông sẽ vận hành mà không cần có sự chứng minh đi kèm. Tư duy đám đông là mang tính máy móc. Nó bị điều khiển bởi những liên tưởng khuôn mẫu, những bản chế hằn sâu trong ký ức. Nó dùng những hình ảnh cụ thể. Đám đông sẽ suy nghĩ sự vật không phải như nó vốn có mà như cách người ta muốn họ hình dung ra thế.
Đám đông có sự phóng chiếu xếp đặt hình ảnh này lên hình ảnh khác và từ sự kiện này áp đặt sang cho sự kiện khác mà họ nghĩ rằng giống nhau. Họ đã tỏ ra bất lực trong việc tách bạch hiện thực và những hình dung về nó, trong việc phân biệt cái mong muốn và cái thực tế. Họ tự suy diễn hình ảnh và phóng chúng ra bên ngoài mà không phải tự tế đang diễn ra. Sự lẫn lộn của thế giới bên trong và thế giới bên ngoài là đặc điểm của tư duy tự động.
Dù là các hình ảnh chồng lên nhau hay sự phóng chiếu ra bên ngoài lệch lạc thì chúng đềm không quan trọng bằng việc chúng có tín ngưỡng và tình cảm quy định dòng chảy của nó. Cái chính đối với nó là tìm mọi cách duy trì được cái cụ thể, cái nghiệm sinh. 1 hình ảnh xác định của nhân vật quan trọng phải gây được phản ứng tức khắc. Các tư tưởng có thể không có sự gắn kết với nhau theo logic nào, cũng không cần có sự chứng minh phù hợp nào cả. Nó được tích tự trong tâm trí họ và dần dần được coi như điều tất nhiên.
Sự lặp lại có khả năng đặc biệt biến tư tưởng – khái niệm thành tư tưởng – hành động. Nội dung trừu tượng của cái đầu chuyển thành nội dung cụ thể của cái sau. Để trở thành phổ biến, các học thuyết và lý thuyết phải từ bỏ cái làm chúng trở nên đặc biệt: những sự rắc rối của suy luận, sự chính xác của ngôn ngữ. Đám đông không có thời gian và điều kiện cần thiết để suy tính các lập luận, cân nhắc theo hay chống, điều chỉnh các sự kiện.
Các tư tưởng được giản lược và khi được lặp đi lặp lại sẽ dễ đến với mọi người. Ai cũng có thể dùng chúng được, chúng dễ dàng được chuyển biến thành các hình ảnh đơn giản, tác động mạnh vào thị giác của đám đông.
Có 2 kiểu tư duy dùng để lý giải hiện thực: cái đầu dựa vào tư tưởng – khái niệm, cái sau dựa vào tư tưởng – hình ảnh. Cái đầu hoạt động theo các quy luật của lý trí và bằng chứng, cái sau theo các quy luật của ký ức và ám thị. Cái đầu thuộc về cá nhân, cái sau thuộc về quần chúng. Sẽ là sai lầ nghiêm trọng nếu tìm cách thuyết phục và lôi kéo quần chúng bằng những thủ thuật chỉnh dành riêng cho những người riêng lẻ, cũng như sẽ sai lầm nếu xây dựng ngân sách nhà nước theo các xây dựng ngân sách gia đình. Những người quen với các chuỗi suy luận chặt chẽ thì khi đến với đám đông không kìm được việc dùng hình thức này tất yếu sẽ luôn ngạc nhiên khi thấy luận luận của mình không đạt được hiệu quả mong muốn.
- Đám đông và phụ nữ
- Chất tập thể: xung động và bảo thủ
Tâm lý học đám đông nghiên cứu 2 vấn đề chính yếu nhất là: sự kết hợp của các cá nhân thành đám đông và sự thống trị của kẻ cầm đầu đối với đám đông. Sự tan rã của cá nhân thành đám đông đều từ sự ám thị. Mọi người có thể bị thôi miên và biến thành những cố máy tâm lý do vô thức điều khiển.
Tâm lý học đám đông chỉ ra rằng nó hay thay đổi, nhẹ dạ cả tin, tâm trạng thất thường. Và điều này làm ta liên tưởng tới phụ nữ, đó là những nét đặc trung của phụ nữ. Và vì vậy ta có thể coi rằng đám đông mang tính nữ. Điều đó có nghĩa là nó sẽ thiên về cảm xúc, thất thường, nhẹ dạ, đồng bóng, chuẩn bị cho nó dễ bị ám thị, tính thụ động, tính lệ thuộc truyền thống, sự nhẫn nhịn, chuẩn bị cho nó quen với sự sùng kính.
Đám đông bị ám thị và có xu hướng về những thái độ cực đoan. Họ có thể dễ dàng và thường xuyên thay đổi. Có thể kéo họ đi từ 1 thái cực này sang 1 thái cực khác mà không gặp phải sự kháng cự nghiêm trọng nào. Từ đó có thể khăng định đám đông là phụ nữ. Khi thì là tù nhân của các truyền thống, phong tục và vô thức cổ xưa, nó đối nghịch với mọi sự đảo lộn. Khi các đảo lộn này có diễn ra, nó sẽ quay lại sau đó để khó nhọc tìm cách khôi phục những cái mà nó đã từng dễ dàng phá hủy trước đó.
- Hình thức tập thể: giáo điều và không tưởng
Tín ngưỡng được coi là nền tảng gắn kết các con người rời rạc với nhau để tạo thành đám đông. Nếu bị mất đi tín ngưỡng, bị thiếu đi những tư tưởng độc lực, các nhóm người sẽ bị trơ ì và trống rỗng và tan vỡ. Xã hội học hiện đại thì khẳng định rằng con người đã trở lên lý trí và dựa trên tâm lý khoa học để suy xét các vấn đề và các vấn đề tôn giáo, đám đông là không chính xác. Nhưng các tư tưởng này có vẻ sẽ không thể luôn luôn đúng được.
Các tư tưởng chiến thắng khi trở thành tín ngưỡng, không phải vì chúng là đúng đắn hay có ý nghĩa. Điều này diễn ra vì chúng mang diện mạo của truyền thống. Chúng cần phải đi từ ý thức của cá nhân vào vô thức của đám đông, tìm thấy tiếng vang trong ký ức của nhân dân. Để nhập được vào linh hồn của đấm đông, tín ngưỡng phải có tính cahats nghiêm ngặt của phong tục tập quán. Nó tự áp đặt mình bằng sức mạnh của sự hiển nhiên và bằng năng lượng cảm xúc không thể cưỡng lại.
Được coi là các chân lý tuyệt đối lặp đi lặp lại nhờ sự ám thị liên tục, tín ngưỡng trở nên trơ lì đối với các chứng cứ của lý trí, với sự hoài nghi, với những sự kiện rõ ràng mâu thuẫn với nó. Đám đông nhìn chung thường khước từ mọi tranh luận, mọi sự chỉ trích. Nó không có các bước lùi cần thiết, không quay lại mình để mà suy ngẫm. Từ đó, đám đông luôn duy trì và tăng cường tính cố chấp của mình. Các tín ngưỡng đều luôn duy trì tính không khoan nhượng, cực đoan và thuần túy.
Tín ngưỡng hướng tới việc tạo ra 1 thực tế thỏa mãn hơn thực tế hàng ngày. Nó đối lập thực tế đó với 1 tương lai tương sáng hơn. Tuy nhiên, điều này là sự chối bỏ thực tế và thường quy họ về với các vấn đề nguyên thủy ban đầu trong vòng luẩn quẩn không có lối ra. Niềm tin không tưởng chính là 1 biểu hiện của bản năng tự bảo tồn có khuynh hướng biểu hiện thái quá.
Để có thể đi vào được linh hồn của đám đông. Các tín ngưỡng sẽ học tập theo cách mà các tôn giáo đã làm được để duy trì địa vị thống trị của mình trong tâm trí đám đông. Niềm tin của đám đông khoác tính chất cảu sự phục tùng mù quang, sự cố chấp kịch liệt, nhu cầu tuyên truyền tôn giáo, điển hình của cảm xúc tôn giáo, vốn có đối với tình cảm tông giao. Tất cả niềm tin của họ có hình thức tôn giáo.
- Thủ lĩnh của đám đông
Đám đông với các con người bị ám thị và bị phân cực, dễ bảo và dễ thay đổi, hay bị tác động bất ngờ từ bên ngoài thế giới. HÌnh thức của họ là các tín ngưỡng bền vững mang bản chất giáo điều và có nội dung không tưởng, giống như tôn giáo. 2 điều trên được gắn kết với nhau bởi các lãnh tụ. Ông ta biến đám đông bị ám thị thành 1 phong trào tập thể được thống nhất bởi 1 đức tin, được chỉ hướng bởi 1 mục đích.
Các tư tưởng điều khiển được quần chúng, nhưng người ta không điều khiển được khối quần chúng mang tư tưởng. Để làm được việc điều khiển này, cần ọ biến những quan điểm phát ra từ đấu óc của ai đó thành hành động của niềm đam mê phổ quát, nhờ đó tư tưởng trở thành vật chất.
Điều 1 thủ lĩnh cần có là họ phải là con người của đức tin, tin đến cùng cực, đến xảo quyệt. Hầu hết mọi người đều không kiên định trong các chính kiến của mình, hoài nghi các lý tưởng của mình. Với sự xuất hiện của các thủ lĩnh mọi sự thiếu tin tưởng biến mất, và mọi khoảng cách được xóa bỏ.
1 thủ lĩnh thì 1 tham vọng lớn không phải là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của ông ta. Ông ta cần có đức tin và tín ngưỡng mạnh mẽ đi cùng nó. Trí tuệ đối với họ không phải là yếu tố quan trọng nhát. Không có sự dung cảm để huy động mọi người thì trí tuệ cũng chẳng thể làm được gì. Không có nó thì không bao giờ 1 ý nghĩ có thể trở thành hiện thực, 1 con người giành được sự hâm mộ.
- Về uy tín
Cái yếu tố tỏa sáng xuyên qua đức tin và sự dung cảm, cái đặc điểm khó xác định nhưng có hiệu quả của thủ lĩnh đó, được gọi là uy tín. Nó là 1 sức mạnh thần bí, 1 sự mê hoặc chứa đầy sự khâm phục và kính trọng, làm tê liệt các khả năng phê phán. Người nào có được nó sẽ có 1 sức tác động mạnh mẽ, 1 ảnh hưởng tự nhiên.
Uy tín là sự kết hợp 2 phẩm chất của thủ lĩnh: niềm tin rạng ngời và sự dung cảm bền bỉ. Uy tín chức vụ là loại uy tín có khi ta có 1 chức vụ nào đó đem lại bất chấp ta là loại người nào. Trong xã hội phân chia rõ ràng thì loại uy tín này là chiếm đa số. Uy tín cá nhân là nó gắn liền với 1 cá nhân cụ thể và nó sẽ có ảnh hưởng lớn lao trong đám đông quần chúng. Nhờ uy tín cá nhân mà có thể xốc quần chúc dậy, lay chuyển họ, truyền cho họ sự cuồng tín, hay có thể áp đặt cho họ 1 kỷ luật mới.
Chỉ có các lãnh tụ đã chết mới duy trì được sự trường tồn ảnh hưởng của họ. Các lãnh tụ đang sống thì sẽ gặp rất nhiều vấn đề trong việc duy trì quyền lực cho mình. Từ Naponeon, Hitler, De Gaulle,… đều phải luôn duy trì uy tín của mình thông qua các chiến tích thành công và khi điều đó không còn nữa uy tín của họ sẽ bị suy sụp nhanh chóng và bị kéo đổ bởi chính những kẻ cuồng tín đi theo họ.
- Những chiến lược của truyền thông và ám thị tập thể
Uy tín tỏa ra sự quyến rũ, còn thủ lĩnh là kẻ đi quyến rũ. Dây là đường lối bắt buộc của thủ lĩnh đối với đám đông. Giống như nhà thôi miên, thủ lĩnh sắp xếp các yếu tố bên ngoài để thay cái thật bằng cái giống thật. Hắn giữ đám đông ở 1 khoảng cách, làm cho họ xa rời hiện thực để trình ra cho họ 1 hiện thực khác tốt đẹp hơn, theo đúng như họ chờ đợi. Hắn sẽ biến các sự kiện, các mục đích tập thể thành những biểu hiện chấn động và kích động. Biến cái tầm thường thành cái khác thường.
Khi quyến rũ đám đông, hắn quyến rũ chính bản thân mình. Hắn hành động nhất quán với quần chúng, làm sống lại các hồi ức của họ,m soi sáng các lý tưởng của họ, cùng chịu cái mà họ chịu, trước khi quay họ lại và tím cách lôi kéo họ đi theo quan điểm của mình.
Để biến các cá nhân thành đám đông và lôi cuốn họ vào 1 hoạt động xác định thì cần có chiến lược truyền thông phù hợp. Mỗi cách thức là riêng biệt với từng thủ lĩnh khác nhau. Nhưng chúng đền hướng đến 3 chiến lược chính: trình diễn, lễ nghi và thuyết phục.
Trình diễn: là các không gian thể hiện như các quảng trường, nhà thờ, sân vận động,…. Được tạo ra để tạo ra 1 không khí nhằm tụ tập tạo ra các đám đông cần thiết trong 1 không gian. Các nghi lễ là cuộc tập hợp biến thành cuộc lễ thôi miên, trong đó thủ lĩnh sử dụng tất cả quy tín của mình để thôi miên đám đông. Nghi lễ gồm rát nhiều thứ như cờ quạt, tranh ảnh, bài hát cơ ngợi, ca ngợi sự gắn bó, tư tưởng….các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành, các đại hỗi diễn ra trước moi cuộc huy động đám đông,..
Khi cảnh trí đã được sắp đặt, quần chúng đã lại bị kích động và ngập vào cơn thôi miên tập thể thì sự chú ý toàn thể là hướng đén cá nhân thủ lĩnh. Cái nhìn của hắn có sức hấp dẫn, lôi cuốn và đồng thời thị uy, cái nhìn đó làm người xưa gán cho mắt của các vị thần, của 1 số loài vật hùng mạnh… đám quần chúng bị thu phục càng mạnh mẽ hơn nữa. Hắn có thể truyền đến quần chúng các tham vọng của mình, đưa ra giải pháp đơn giản cho những vấn đề phức tạp và hành động tối cao, và khi nói với tất cả mọi người như vậy hắn tạo ấn tượng là hướng đến từng người một.
Điều kiện đầu tiên của mọi sự tuyên truyền là sự khẳng định rõ ràng, không cho phép phản đối, quan điểm 1 chiều, tư tưởng thống trị. Nội dung thông tin có thể hời hợt. THậm chí có thể đưa ra những điều không có gì mới mẻ.
Sự khẳng định và sự lặp lại có kết quả là sự ám thị tập thể. Chúng hòa vào dòng chảy của tín ngưỡng với tộc độ của bệnh dịch. Sự lây lan diễn ra càng nhanh khi những tình cảm được gợi lên càng mạnh, hành động được liên kết càng nhanh, giống như bị đoản mạch với tư tưởng.
- Kết luận
Khi ám thị nhường chỗ cho thủ lĩnh, người truyền cho đám đông các tư tưởng của mình, ám thị phải khiến họ tuân phục như với 1 sức mạnh đến từ bên trong. Mỗi người dễ dàng trở thành kẻ khác, thực hiện những hành động thường là tự nguyện và suy nghĩ tự đọng như cái máy. Nó bị biến thành thành viên của đám đông đi theo người tạo ra mình. Đám đông và thủ lĩnh nhìn nhau như trong gương, qua đó mỗi bên đầu thấy hình ảnh của kẻ khác. Bỏ mặt nạ của thủ lĩnh ra thì thấy đám đông. BỎ mặt nạ của đám đông ra thì xuất hiện thủ lĩnh. Thủ lĩnh là hiện thân và vật thay thế của tư tưởng về dân tộc, về tự do,…
Tâm lý học đám đôn đã kéo thôi miên ra khỏi lĩnh vực y học, bứt nó khỏi chuỗi trị liệu tâm thần và đưa nó vào môi trường xã hội, vào văn hóa, với tư cách là 1 hệ hình các mối quan hệ bình thường giữa con người với nhau.
- Nguyên tắc của thủ lĩnh
- Nghịch lý của tâm lý học đám đông
Lý thuyết tâm lý học đám đông cho rằng đám đông hình thành sẽ làm giảm năng lực tư duy, sự sáng tạo suy giảm, mọi thứ đều theo bản năng cơ bản. Nhưng thực tế xã hội đang phát triển ngày càng đi lên với các phát minh, sáng kiến liên tục diễn ra. Điều này chỉ ra rằng có sự khác biệt ở đây giữa lý thuyết và thực tế.
Từ đó lý thuyết tâm lý học đám đông bắt đầu đề cao vai trò của các thủ lĩnh. Họ có thể là các chính trị gia, lãnh đạo tôn giáo, nhà khoa học, nhà thơ, triết gia,… và họ đã thực sự làm cho xã hội có sự thay đổi, những phát kiến, những biến cố xã hội đã làm nên lịch sử.
Từ đó, trung tâm của tâm lý học đám đông dịch chuyển từ quần chúng sang thủ lĩnh. Tám động của thủ lịch đối với đám đông giải thích sự tương đồng của hắn với đám đông. Sự bắt chước là hình thức của ám thị, trở thành cơ chế chính của đời sống xã hội.
- Đám đông tự nhiên và đám đông nhân tạo
Con người luôn có xu hướng bắt chước người hác vì nó theo bản năng và mong muốn tiết kiệm sức lực. Tai sao chúng ta phải học hành, nghiên cứu, khám phá lam gì khi có thể dễ dàng bắt chước theo những người đã và đang làm điều đó rồi. Đây là sự lười biếng trong bản năng của mỗi người.
Con người là 1 cá thể có tư duy. Cả tin và bốc đồng, hắn vội vã hướng đến những gì không thấy và không biết. Và dù con người có khác nhau đến đâu đi nữa về nguồn gốc, các biểu hiện, tất cả các đám đông đều giống nhau ở những đặc điểm nhất định: sự cố chấp vô cùng lớn, sự kiêu ngạo 1 cách kỳ cục, sự nhảy cảm đau đớn, cảm giác hoảng hốt về sự vô trách nhiệm do ảo tưởng về sức mạnh của họ tạo ra và sự mất hoàn toàn cảm giác mức độ đưa đến sự phóng đại những cảm xúc được đốt cháy qua lại của họ.
Tarde đã kế thừa các mô tả đám đông cả Le Bon và lưu ý thêm rằng đám đông là những liên hợp tự phát và nhất thời, không thể giữ vô thời hạn trong 1 trạng thái hung phấn. Chúng bị định mệnh hoặc là tan rã, biến mất nhanh như khi xuất hiện, không để lại dấu vết nào.
Đám đông tự nhiên thường hình thành do chịu 1 cảm xúc nào đó, do chịu quyền lực của 1 người nào đó như là trọng 1 trận động đất, 1 trận bóng đá, 1 lễ hội âm nhạc… các đám đông này phụ thuộc vào thời tiết, giao thông, các yếu tố vật lý,… và bản chất là tự phát.
Trong khi đám đông nhân tạo lại có sự tụ hợp được hình thành có chủ đích, kết tinh thành giáo hội, đang rphais hoặc xí nghiệp. Họ tạo thành các tổ chức, dựa trên hệ thống các tín ngưỡng chung, trên sự sử dụng hệ thống phân cấp được công nhận bởi tất cả các thành viên trong tổ chức.
Vì vậy, có sự thay thế các đám đông quần chúng tự phát bằng khối quần chúng có kỷ luật, và sự thay thế này luôn đi kèm với sự tiến bộ của trí tuệ chung. Khối quần chúng tự nhiên thường đẩy trí tuệ xuống thấp nhất. Trong khi các khối quần chúng nhân tạo thường đẩy mọi người lên mức của người có trí tuệ cao trong nhóm. Vì các đám đông nhân tạo này phải bắt chước và họ bắt chước theo người thủ lĩnh của họ.
Các tổ chức được tạo ra để nhân lên các năng lực của thủ lĩnh, phổ biến các tư tưởng và mệnh lệnh của họ có bài bản hơn. Nó tạo điều kiện dễ dàng cho sự ám thị từ xa. Nhiều người nhầm rằng việc tổ chức ra đời giúp phân bổ tốt hơn các cá nhân, rằng nó cần thiết cho sự hợp tác của họ, giúp tránh được các rối loạn hoặc sửa chữa các lỗi bên trong cộng đồng. Những điều này là có nhưng chỉ là hệ quả chứ không phải mục đích tạo ra tổ chức ban đầu.
- Nguyên tắc của thủ lĩnh
Tâm lý học đám đông đề cao vai trò của cá nhân kiệt suất, của thủ lĩnh phong tào. Họ đã có các phát minh sáng tạo giúp xã hội phát triển đi lên. Các thay đổi quan trọng trong lịch sử nhân loại là ra các cá nhân kiệt xuất đã sáng tạo ra. Tâm lý học đám đông cho rằng vai trò của quần chúng rất mờ nhạt và chỉ là những người bắt chước theo các thủ lĩnh của họ 1 cách bị động.
Quần chúng là 1 cỗ máy chuyên chế. Họ có nhu cầu được phụ thuộc và ngưỡng mộ, chỉ có 1 người có uy quyền mạnh mẽ và vô điều kiện, có thể thỏa mãn được họ. Các thủ lĩnh dạy cho đám đông các cử chỉ và quy tắc để bắt chước, những thói quen tương hợp nói chung. Bằng sự khống chế tinh thần này, các thủ lĩnh sẽ duy trì được sự trị vì của mình lâu dài và mạnh mẽ hơn nhiều so với sử dụng bạo lực để lãnh đạo quần chúng.
- Dư luận và đám đông
- Truyền thông và Valium của nhân dân
Truyền thông là 1 công cụ mà những người muốn chinh phục đám đông áp đặt cho đám đông quy tắc mà họ mong muốn. Vai trò của báo chí tuyên truyền càng mạnh mẽ hơn khi ở trong thời gian khủng hoảng, khi các côn dân đều nóng trông thông tin từ báo chí và truyền thông cung cấp. Việc báo chí, truyền thông, phát thanh, truyền hình,… định hướng dư luận đã làm giải thể các cuộc nói chuyện riêng tư, các câu lạc bộ tranh luận nhau trước kia.
Truyền thông ban đầu lan truyền thông tin tới từng nhóm, từng cá nhân. Sau đó các nhóm tụ tập với nhau để bàn tán về chúng và thực hiện các sự ám thị với nhau.
- Dư luận, công chúng và đám đông
Ngày nay, với sự vươn lên của truyền thông đã thay thế các đám đông tập hợp với nhau trong 1 không gian khép kín thành các đám đông phân tán ở từng gia đình, từng tổ chức xã hội mà các phương tiện truyền thông đại chúng đã thâm nhập vào từng nhà, tìm thấy ở đấy từng con người để biến hắn thành thành viên của 1 đám đông. Đây là dạng đám đông hình thành ở khắp nơi. Hàng triệu người bình thản đọc báo, bất giác nói theo đài truyền thanh, tạo thành bộ phận của 1 kiểu đám đông mới – phi vật chất, tản mác, tại gia. Theo Tarde, chính đám đông kiểu này đã thực sự tạo ra đám đông của thời đại mới, thời hiện đại.
Sự tổ chức đã biến các đám đông tự nhiên thành các đám đông nhân tạo. Sự truyền thông làm cho họ thành công chúng. Tổ chức thì nâng cao mức độ trí tuệ của những người nằm trong đám đông. Truyền thông thì hạ thấp nó xuống, nhận họ vào các đám đông tại gia. Khi tản mác chúng ta chia sẻ cùng 1 ảo tưởng về sức mạnh toàn năng, thiên về cùng những nhận xét và cảm xúc phóng đại, bị đè nặng bởi cùng những tình cảm giận dữ và căm ghét như thể chúng ta cùng nhau bước ra phố tuần hành tập thể. Chúng ta vẫn là những kẻ mộng du bị uy tín của thủ lĩnh lôi cuốn, sẵn sàng phụ thuộc vào hắn và có xu hướng bắt chước hắn.
- Quy luật phân cực của uy tín
Các phương tiện truyền thông đã làm tăng lên rất nhiều quyền lực của thủ lĩnh, bởi vì chúng tập trung uy tín vào 1 cực này và sự ngưỡng mộ vào cực kia. ĐỒng thời chúng tạo ra 1 kiểu thủ lĩnh mới, đó chính là người nắm được nghệ thuật báo chí. Mỗi nhà lãnh đạo, mỗi chính khách đều cần phải có tài năng của nhà báo, để tạo được tiếng tăm trong công chúng, biến nó thành phe phái, đem lại uy tín cho bản thân mình từ việc kiểm soát truyền thông.
Sức mạnh của nhà báo đến từ năng lực thôi miên từ xa tới quần chúng. Họ có sự hiểu biết công chúng nhờ vào trực giác cũng như dựa vào thông tin. Họ biết công chúng yêu gì, ghét gì. Họ thỏa mãn sự sỗ sàng vừa có tính tập thể vừa có tính vô danh của nó muốn thấy bày ra những đề tài nóng bỏng nhất.
- Nền cộng hòa Pháp: Từ dân chủ của đại chúng đến dân chủ của công chúng
Nước Pháp là nơi các nhà tâm lý học đám đông tiên phong là Le Bon và Tarde nghiên cứu để từ đó đưa ra các lý thuyết và lập luận về tâm lý học đám đông mang tính phổ quát cho toàn nhân loại. Đó là môi trường từ cuộc cách mạng Pháp năm 1789 trở đi và đặc biệt là trong giai đoạn cuộc cách mạng Pháp cho tới khi kết thúc triều đại của Napoleon.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, De Gaulle lên nắm quyền lâu dài bởi 1 nền cộng hòa dựa trên những người đòi hỏi, sự say mê sùng bái De Gaulle sau khi ông này dẫn dắt nước Pháp giành lại độc lập sau chiến tranh. Tới năm 1968, sau cuộc cách mạng sinh viên thì ông mất đi uy tín và thất bại vào tay d’Estaing với nền cộng hòa của những người quản lý. Trong bối cảnh mới này nghệ thuật quản lý không còn là nghệ thuật quyến rũ, mà là nghệ thuật giao tiếp, trong đó các phương tiện truyền thông – báo chí, đài phát thanh, truyền hình chiếm vị trí quyết định.
Các lãnh đạo nhà nước đều đặt tầm quan trọng rất lớn của việc nắm giữ truyền thông và là công cụ chính trong chính trị của họ. Các cá nhân đơn lẻ trong xã hội tạo thành các thành viên của 1 dạng đám đông tạo nên công chúng người xem truyền hình thu nhận cùng những hình ảnh như nhau, cùng những thông tin như nhau, như vậy là cùng những tư tưởng như nhau.
- Môn đệ trung thành nhất của Le Bon và Tarde: Sigmund Freud
- Công việc mờ ám của bác sỹ Freud
Freud đã được ví như các tượng đài lớn của thế giới. Ông sánh vai với Mark, Darwin, Einstein, hay các vĩ nhân xưa như Moise, Aristole, Leonard de Vinci,…các tác phẩm ban đầu của Freud bị coi thường vì tính thiếu khoa học truyền thống của mình.
Hàn cảnh nghiên cứu tâm lý học đám đông của Freud xảy ra sau chiến tranh thế giới thứ nhất với các mâu thuẫn trước và sau thời hậu chiến, cac ảo tưởng hòa bình lâu dài bị phá vỡ. Các cuộc cách mạng xã hội nổ ra khắp nơi nhưng chỉ thành công ở nước Nga, rồi sự bùng nổ của các nhà lãnh đạo toàn trị kiểm soát các nước châu Âu. Sự bùng nên của việc bài do thái, sự huyên náo và cơn cuồng nộ của những bầy đàn bị phân khích đã làm ông nhớ về các đám đông phân khích lao vào các cuộc tàn sát người do thái dưới thời Sa Hoàng Nga.
Freud là người do thái. Quân Nazi bắt là quân bài do thái bắt dầu xuất hiện và gây nên sự sợ hãi trong ông cũng như những người do thái. Mặc dù thấm nhuần văn hóa đứng, tin tưởng vào khoa học và lý trí con người nhưng ông cũng không quên được ám ảnh của đảng Nazi gây cho những người do thái.
Đến với tâm lý học đám đông, 1 phần cũng vì Freud khám phá ra thôi miên trong thời gian ông ở Pháp và tác dụng của nó đối với việc điều trị các bệnh tâm thần, đặc biệt các bệnh động kinh. Từ đó ông dần có phát minh riêng của mình là điều trị bằng lời nói là nền tảng của phân tâm học để tiến hành chữa trị các rối loạn tâm lý.
- Từ tâm lý học đại chúng cổ điển đến tâm lý học đại chúng cách mạng
Nhiệm vụ của tâm lý học là giải thích tất cả các hiện tượng chính trị, lịch sử, văn hóa của quá khứ và hiện tại. Tâm lý học quần chúng là 1 trong những vấn đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Với sự thúc đẩy của Freud và Reich, tâm lý học đám đông đã không chỉ phục vụ cho các thủ lĩnh mà còn cả cho đám đông quần chúng.
- 3 vấn đề của tâm lý học đại chúng
Các đám đông và hiện tượng đám đông tạo ra 3 câu hỏi: đại chúng là gì? Làm sao nó có thể tác động được đến cá nhân theo nghĩa này? Và sự biến đổi tâm lý mà nó trải qua là ở cái gì? Chúng đề cập đến sự khác biệt giữa con người biệt lập và con người liên kết với những người khác. Tâm lý học đám đông với nhiệm vụ là cung cấp câu trả lời cho 3 câu hỏi trên.
Các triệu chứng của đám đông biểu thị sự thoái hóa tâm lý của các cá nhân trong quần chúng. Trong lòng đám đông, sự kiềm chế các xu hướng vô thức giảm xuống. Những điều cấm đạo đức biến mất. Bản năng và cảm xúc thể hiện ra mạnh hơn. Các giá trị khá cổ xưa và các phong tục sẽ chiếm chỗ của lý trí để quy định hành vi của mỗi người. Phần lớn sự chấn động mạnh này xảy ra vào lúc cực điểm của cuộc lễ hội, cuộc nổi dậy, cuộc hành lễ tôn giáo, cuộc chiến tranh, cuộc mít tinh yêu nước…
Đám đông là vô thức. Đó là sự khẳng định khi nghien cứu sức mạnh của đám đông vì sao mà hình thành có được. Freud hơi khác Le Bon ở chỗ ông cho rằng đặc điểm đám đông vẫn tồn tại ở trong chính con người nhưng bị đè nén không thể hiện ra và chỉ khi ở trong đám đông nó mới được giải phóng ra bên ngoài và thể hiện nó.
Các đám đông tự phát, tự nhiên bao giờ cũng là cằn cỗi, vô sinh và thoái hóa. Ngược lại, những đám đông nhân tạo, có kỷ luật – làng xã, đảng phái – thể hiện mình là năng sản và năng suất về văn hóa, chúng thể hiện sự tiến bộ.
- Đám đông và Libido
Chúng ta đều hiểu rằng đám đông co sự suy sụp đời sống tâm lý. Ý thức cá nhân của mỗi người bị xóa mất, cảm xúc nổi lên trên. Đám đông có xu hướng chuyển sang hành động, dùng hành động thể hiện tư tưởng đang chiếm lĩnh đầu óc. Các tư tưởng và tình cảm của tất cả mọi người đều xuôi theo 1 hướng: đám đông có sự thống nhất tâm lý. Đây là biểu hiện bề ngoài của hiện tượng. Ở đây ta tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm điều đó xảy ra.
Nguyên nhân được giải thích lâu này là do sự ám thị gây ra. Khả năng bị ám thị là thuộc tính của tất cả các thực thể xã hội, cũng như xu hướng rơi xuống dưới là thuộc tính của các vật thể có trọng lượng hay khả năng sinh sản là thuộc tính của mọi vật chất sống. Việc mô tả chính xác ám thị có tác động tới đám đông đã được ứng dụng vào tâm lý học đám đông nhưng chưa có sự giải thích logic điều này.
Freud đã giải thích nguồn gốc phía sau sự ám thị, thôi miên đó là “libido”, đây gọi là hạt nhân của tình yêu nhục dục. Nó bao gồm tất cả các loại tính yêu, tình yêu đối với bản thân, đối với trẻ em, đối với những người thân cận, đối với các tư tưởng của mình,…Cơ sở của mọi sự kết hợp là tình yêu, có tính dục hoặc không, là thiện cảm của người này với người khác. Libido chính là nguyên tắc giải thích cho tâm lý học tập thể.
Để xây dựng được 1 tập thể có tính gắn kết cao và duy trì lâu dài thì chúng ta cần khắc phục 2 xu hướng phản xã hội là bệnh tự si và sự thỏa mãn nhanh chóng các ham muốn và bản năng. Vì điều đầu tiên tạo ra các nhóm người kiêu căng và thù địch với phần còn lại, điều thứ 2 lại thể hiện sự thay đổi cường độ nhanh chóng và tiếu ổn định trong sự gắn kết.
Thứ nhất, Libido đã mở ra con đường giải thích các hiện tượng lớn lao của tâm lý học đám đông. Libido là sự thống nhất tập hợp và duy trì mọi người cùng nhau. Sự thống nhất theo kiểu tình ái tồn tại ở các cấp bậc khác nhau.
Thứ hai, sự phụ thuộc của đám đông vào thủ lĩnh do là đám đông từ bỏ tình yêu đối với mình và bộc lộ tình yêu lấn lướt đối với người khác. Sự thụ thuộc này không chắc chắn vì thủ lĩnh nhận được cái cho không mà không có gì để trao đổi lại. Để che đậy sự bất lợi này thì các hệ thống đảng cấp xã hội ra đời để hỗ trợ tạo thành sự bình đẳng ảo để trao đổi giữa thủ lĩnh và đám đông.
- Nguồn gốc sự gắn bó cảm xúc trong xã hội
Sự gắn bó cảm xúc với 1 ai đó: người cha, người bạn, người thầy, được biểu tị bằng khái niêm đồng hất hóa. Nó thay cho ham muốn tình yêu đối với ngôi này. Khi bắt chước nó, và con người đang yêu trở thành người mà hắn yêu. Khi bắt chước nó, hắn làm chủ được nó. Sự hy sinh đồng thuận cho phép làm chủ được mình và là chủ được quan hệ với người khác. Libido, hạn chế thói ích kỷ tự si và mimesis củng cố quan hệ cảm xúc, cả 2 cái đều cần thiết để tạo nên đám đông con người.
Sự đồng nhất hóa giúp tránh được nguy cơ bị hắt hủ hoặc tấn công từ phía hội nhóm, những người ở trên hoặc thân cận. Trở nên như người khác, vô danh và giống nhau, thường đưa lại cảm giác an tâm cuộc sống. Sự đồng nhát hóa làm cho mình thích nghi thực sự với người khác.
- Tình ái và sự bắt chước
Có 1 tổ hợp các mối quan hệ giữa con người, chúng nằm trong 2 từ “tình yêu” và “đồng nhất hóa”. Tình yêu kéo chúng ta rời khỏi cơ thể để hợp nhất với người khác. Còn đồng nhất hóa làm chúng ta ham muốn bắt chước với xu hướng đồng nhất hóa, ràng buộc vời người khác. Tình yêu giúp chúng ta hợp nhất với những người mà ta muốn chiếm hữu, còn đồng nhất hóa là muốn biến chúng ta trở thành những người mà ta muốn trở thành. Nhưng về cơ bản trong tâm lý mọi người thì tâm lý tình yêu đều sẽ bị tâm lý bắc chước dần dần chiếm ưu thế và vươt trội lên.
Ban đầu đứa trẻ, hay fan hâm mộ đầu tiên có tình yêu đặc biệt với bố mẹ, hay thần tượng của mình. Nhưng sau đó đứa em của nó sinh ra, hay các fan mới ra đời. Tình yêu của bố mẹ bị chia sẻ cho đứa con thứ 2, thần tượng cũng dành tình cảm cho fan mới. Đứa con thứ nhất hay fan ban đầu thì muốn chếm hữu làm riêng của mình. Nhưng bố mẹ thì thích nhiều con, các thần tượng thì muốn càng nhiều fan càng tốt. Đứa con cả hay fan ban đầu cũng không thể làm trái trong việc là biến mất đứa con thứ 2 hay fan mới đi, cuối cùng họ thỏa hiệp với nhau bằng việc từ bỏ tình yêu luyến ái ban đầu để chuyển sang đồng nhất hóa với các đứa con thứ 2, đồng nhất hóa mình với các fan mới của thần tượng. Đây là quá trình bình đẳng hóa tạo ra quần chúng.
- Kết thúc của thôi miên
Vai trò của thôi miên trong tâm lý học đám đông được gán ch từ sớm nhưng thôi miên vẫn là 1 đề tài thực chứng mà vô cùng khó khăn trong việc khám phá ra cơ chế vận hành thực tế của nó. Nhưng nó không phải là bản chất giải thích cho tâm lý học đám đông.
Cấu tạo tâm lý học của đám đông theo chiều dọc là cơn nhiệt hứng tình yêu của mỗi người đối với thủ lĩnh. Theo chiều ngang là tập hợp nhiều người có cùng 1 đối tượng làm lý tưởng của cái tôi và do đó đồng nhất hóa với nhau. Ở họ, sự đồng nhất hóa chiếm chỗ, thông qua sự thoái lui, các ràng buộc libido. Bức tranh mà đám đông quần tụ lại đưa lại cho chúng ta: tất cả mọi người yêu mến thủ lĩnh và mỗi người đồng nhất hóa mình với người bên cạnh. Thủ lĩnh thì yêu mình và được yêu, còn đám đông thi fyeeu và bắt chước hắn thay vì yêu mình.
Vì vậy, bản chất vấn đề không có thôi miên ở trong. Bên trong tâm lý học đám đông là phân tâm học.Vì chúng ta không dính dáng gì với ảo giác, mộng du, với những đoàn người mơ khi tỉnh, với những bộ óc tự động trong tâm lý học đám đông. Chúng ta gặp những thực tại của ham muốn, những cá nhân yêu đương và bắt chước tập hợp quanh 1 thủ lĩnh.
- Tâm lý học của vị thủ lĩnh có thần uy
- Quyền uy và thần uy
Trong xã hội có 1 kiểu uy quyền cho phép hình dùng rằng trong thế giới tâm lý có sự thống trị được thực hiện không hẳn bằng quyền lực vật lý, vô danh, mà bằng ảnh hưởng tinh thần của cá nhân: đó là quyền lực của thần uy. Thần uy dùng chỉ người được thiêng hóa. Đó là người quy định các giáo lý của 1 tôn giáo, đưa lại ân sủng làm giảm nhẹ đau khổ, ánh sáng chiếu rọi vào tâm hồn đau khổ của tín đồ, lời nói sống động của nhà tiên tri làm xúc động trái tim, sự hào điệu bên trong của thầy và trò.
Ân sủng này là vốn có đối với các nhà lãnh đạo, những người dân dắt quần chúng và trở thành đối tượng sùng bái của họ. Churchill, De Gaulle, Tito,… đều có nó. Tác động của nhà lãnh đạo có thần uy không phụ thuộc vào sự giầu có, vào công nghiệp, vào quân đội – tất cả những cái đó chỉ là phương tiện bổ trợ cho việc điều hành hàng ngày.
Thần uy theo nghĩa mạnh nhất của từ là quyền lực của nhà tiên tri. Cũng có thể là các chiến binh anh hùng. Các nhà tiên trị lập ra những nguyên tắc mới cho xã hội. Người ta tôn kính họ và phục tùng họ khi thừa nhận những công lao đặc biệt của họ. Quyền uy sẽ mang tính cảm xúc trong khi thần uy thì sẽ mang ý nghĩa về sự tiên tri.
Các thủ lĩnh mang thần uy thường tồn tại trong lịch sử xưa khi con người còn dễ bị lừa bịp bởi các năng lực siêu nhiên và được truyền bá ghi chép lại từ các môn đồ của họ và tạo ra vầng hào quang quanh họ. Ngày nay, các thủ lĩnh đám đông là 1 thực tại và cần có sự vững chắc của tri thức đi kèm.
- Định đề của tâm lý học đại chúng
Thần uy có đặc tính gọi hồn quá khứ, thức tỉnh những tình cảm và hình ảnh vui sâu trong ký ức, quyền uy của truyền thống. Nhờ sự thôn đồng này với thế giới của những kỷ niệm mà người cầm đầu gợi được phản ứng phục tùng tức khắc. Chỉ cần hắn xuất hiện là đủ để quần chúng thừa nhận hắn là 1 thủ lĩnh, người đóng vai trò trên 1 sân khấu, trong những hoàn cảnh khác. Dường như hắn đánh thức con quỷ bên trong quần chúng, như 1 nhà thôi miên khơi dậy ở bệnh nhân cua rminfh 1 di sản cổ xưa. Con quỷ đó chính là ký ức.
Các sự kiện tưởng chừng trôi qua nhanh chóng và trí nhớ của tập thể rất ngắn ngủi. Nhưng thực tế không phải vậy, trí nhớ rất dài và trong 1 số điều kiện đặc thù nó sẽ bùng phát trở lại mãnh liệt. Định đề của tâm lý học đại chúng: các ấn tượng của quá khứ được lưu giữ trong đời sống tâm lý của quần chúng 1 cách như nhau, dưới dạng các dấu nhớ.
- Điều bí mật bản lai
Quần chúng dù không muốn vẫn lưu giữ những dấu vết cuộc sống cổ xưa của mình và của những thời nguyên sơ. Họ lặp lại chúng. Họ thực hiện điều này bằng 2 cách là tổ chức các bữa ăn chung với nhau và thờ cúng chung 1 tổ tiên. Bữa ăn đó gọi là lễ totem, nó dùng để tưởng nhớ tới người cha sáng lập ra đám đông giống như Christ trong tâm trí các linh mục. Họ là những người được phong thánh sau khi đã mất và duy trì vai trò thủ lĩnh trong tâm trí về sau cho đám đông theo sau họ.
Thời tiền sử, người cha trong gia đình là kẻ thống trị tối cao và áp đặt luật pháp nên gia đình. Điều bí mật bản lai chỉ ra rằng các đứa con của ông đã mưu hại ông rồi tổ chức bữa ăn totem sau đó để thống nhất với nhau về việc sụp đổ của cách thống trị cũ và ra đời luật pháp thông trị và quyền bình đẳng của chúng.
Mặc dù đã mất, người cha này vẫn không hoàn toàn mất đi vị trí của mình trong những người con đã xử tử ông để giải thoát bản thân giành lấy tự do cho mình. Theo thời gian trôi đi, hình ảnh ông dần mất đi các điều xấu, sự độc đoán chuyên quyền của mình mà trở thanh 1 người đầy lòng vị tha tốt đẹp dẫn dắt sự liên kết các người con với nhau. Cấc người con bắt đầu hoài niệm về người cha đã mất và yêu thương nhớ nhung tới ông thay vì sự thù hận căm ghét khi ông còn sống. Sau cùng, họ thần thánh hóa người cha lên, bao quanh hắn 1 thứ tôn giáo nào đó. Họ che giấu đi vụ giết người, sự thất bại của người cha. Họ sáng tạo ra vị chúa, 1 mẫu hình người cha lý tưởng, 1 vụ chúa mà tất cả các con đều yêu mến và phục tùng. Sau khi chết, vị cha là biểu tượng của cộng đồng, cái đảm bảo cho đạo đức và luật pháp vận hành.
- Những giả thuyết về các vĩ nhân
- Con người Moise
Cứ mỗi khi diễn ra sự biến động lớn và xuất hiện 1 kiểu quyền uy chính trị mới thì học thuyết và khuôn mặt của quyền uy này lại được thể hiện bằng huyền thoại. Các nhà lãnh đạo hiện nay cũng giống xưa kia, đó là những con người quyền lực và cai trị. Để lôi kéo và dẫn dắt các dân tộc hiện nay, họ cần phải nổi bật ở những đặc điêm riêng làm họ khác với tất cả những người còn lại.
Moise không chỉ là lãnh tụ của dân Do Thái ở Ai Cập. Ông còn là nhà lập pháp của họ, người giáo dục họ và buộc họ phải theo 1 tôn giáo mới. Ở Moise việc áp đặt và tôn trọng đáo đức là cái đảm bảo sự trung thành của đám đông, sự ủng hộ của họ cho hoạt động chính trị của mình. Chính đạo đức đã giúp ông có sức sống bền bỉ trong tâm trí đạo do thái mà ông đã lập ra.
- Cuốn tiểu thuyết gia đình của các vĩ nhân
Trong mỗi đứa bé trải qua 1 phần đời mình giữa 2 gia đình: 1 là gia đình gốc ngự trị ở đó là Eros, tình yêu. 1 là gia đình tử tế dựa trên sự đồng nhất hóa với 1 nhóm người, 1 cá nhân, 1 quy mô các giá trị xã hội, 1 ls tưởng làm hắn say mê, thường đó là 1 gia đình tưởng tượng trong não đứa trẻ. Nó giống như đứa trẻ tự nghĩ ra 1 cuốn tiểu thuyết gia đình trong đầu và mong muốn nó ở thực tế nhưng mà chúng không có được ở ngoài đời.
Đại đa số sẽ từ bỏ cuốn tiểu thuyết này về sau, nhưng 1 số nhỏ lại bị ám ảnh về nó. Họ xây dựng mô hình các Ceasar, Napoleon, Newton, Einsstein, Moise, Christ,… và muốn biến cuộc sống của mình như những vĩ nhân đó, để ra khỏi môi trường sống thực tế hiện tại của mình. Các chứng vĩ cuồng, ám ảnh này thôi thúc họ và 1 số trở thành những thủ lĩnh, các vĩ nhân trong tương lai.
- Sự phát minh ra dân tộc
Sau giả thuyết gia đình của vĩ nhân nó đã trả lời câu hỏi là giả thuyết thuộc vòng totem được mở ra bằng việt giết người cha và kết lại bằng sự phục sinh của người cha trong người con trai chiếm chỗ ông ấy. Sức mạnh hữu hình của người sống sẽ không chút hiệu quả nào nếu không có sức mạnh vô hình của người chết.
Học thuyết của Moise ra đời ở Ai Cập, giả thuyết rằng nó do vị Pharaon Ikhanton đưa ra để phá thế đa thần giáo để thành lập 1 nền độc thần. Nhưng Ikhanaton qua đời và vị Pharaon kế vị đã quay lại với sự đa thần. Trong đó Moise, vị hoàng tử Ai Cập đã theo đuổi thuyết độc thần này và nổi loạn đưa người Do Thái rời Ai Cập và cưỡng chế truyền bá tôn giáo của mình. Ông sử dụng vũ lực áp chế tuyệt đối ép người do thái nghe theo, đàn áp các cuộc nổi dậy chống lại nó trong 1 thời gian dài. Sau cùng ông bị giết và tôn giáo của ông bị chìm vào quên lãng 1 thời gian, nền đa thần giáo lại vươn lên. Nhưng mặc dù bị giết, nó đã gieo vào tâm trí người do thái mầm mống tôn giáo do thái giáo, nó tiếp tục được 1 số môn đồ trung thành của ông tuyên truyền qua nhiều thế hệ và sống lại mạnh mẽ hơn cả lúc Moise còn sống. Từ đó đã tạo ra 1 dân tộc mới, dân tộc do thái kéo dài hơn 2.000 năm tới ngày nay.
- Thủ lĩnh kiểu Moise và thủ lĩnh kiểu Totem
Các thủ lĩnh thực thi quyền lực của mình nhờ những thiên tư đặc biệt và nhờ tư tưởng, tâm fnhifn thế giới mà họ tuyên bố. Nó trở thành niềm đam mê thống trị của 1 giai cấp. 1 đảng phái hay 1 dân tộc. Sự hiện diện của những thiên tư này, chúng thật sự có tính chất thần uy, làm chúng ta sửng sốt về cá nhân, nhất là những lời nói tưởng như nực cười ở miệng người khác, những cử chỉ tưởng như giả dối ở những người khác thì ở hắn lại không hề nực cười hay không đúng chỗ. Ngược lại, chúng gây ra ấn tượng mạnh cho tất cả mọi người. Chúng ta thấy chúng là dấu hiệu của 1 niềm tin mạnh mẽ ở 1 cá nhân hòa lẫn mình với tư tưởng, với xứ mệnh.
Ngày nay, cấc vị thủ lĩnh thời hiện đại thường có 2 loại: thủ lĩnh kiểu Moise và thủ lĩnh kiểu totem. 1 số là những nhà tiên trii, nhà sáng lập nền cộng hòa như ở Mỹ, sáng lập tôn giáo như Mahomet, Marx, Gandhi. 1 số thì như các nhà độc tài, những nhà diễn thuyết mị dân, nhưng ông vua ma thuật hay các saman trong những xã hội gọi là nguyên thủy.
Các thủ lĩnh kiểu Moise muốn có được sức mạnh tỏa sáng của vĩ nhân. Họ kìm giữ mưu toan của những người khác muốn bắt chước họ, muốn nhìn hiện thực qua mắt họ. Họ cũng hy vọng tránh được việc niềm tin biến thành mê tín, thần uy thành bùa chú, còn cá nhân họ thành giả thần, đối tượng của sự tôn sùng. Trong khi các thủ lĩnh kiểu totem thì ngược lại. Họ làm tất cả để duy trì sự tôn sùng cá nhân họ. Họ luôn tìm cách tạo ra xung quanh mình và xung quanh tư tưởng mà họ dựa vào 1 huyền thoại tỏa sáng, chứa đầy ẩn dụ. Họ lấy chúng, ở trong các tập uqnas và cách tư duy truyền thống. Những cái đó cho phép bảo tồn dưới vẻ là mới, nội dung cũ và quen thuộc để đám đông nanh chóng bị khuất phục. Các người cha của đạo cơ đốc đã la như thế, họ đã đồng hóa tất cả gánh hành lý của các phong tục dị giáo, các vị thần địa phương, các vị thánh được đặt tên lại, để chinh phục các dân tộc. Và để củng cố quyền lực của mình, giáo hội đã đặt ra những lễ lạt xa hoa lộng lẫy, nhưng nghi thức thần bí cho thế giới bị chinh phục nhằm có khả năng nắm chặt nó trong tay mình.
Các vĩ nhân thoe kiểu Moise thường đồng hóa dân chúng với tôn giáo, tư tưởng mình theo đuổi còn bản thân mình thì lùi ra phía sau 1 cách khiêm tốn. Trong khi theo kiểu totem thì sẽ đồng hóa dân chúng với chính bản thân mình để nâng cao địa vị của mình và thần thánh hóa bản thân mình lên.
- Những tôn giáo thế tục
- Bí mật của 1 tôn giáo
Đảng phái vừa là giáo hội vừa là quân đội vào thời đám đông. Nỗi sợ ám ảnh mạnh nhất các thủ lĩnh chính trị, tôn giáo, quân đội là nội sợ thấy tổ chức của hắn quay lại trạng thái đám đông do 1 sai lầm nào đó hắn phạm phải. Là lúc đám đông với đầy tâm trạng và dễ lây lan, nhưng mà thiếu đức tin vững mạnh quanh mình. Họ cần 1 tôn giáo tồn tại để gắn kết thành 1 đám đông có sự gắn kết cao.
Các tôn giáo thế tục này không đòi hỏi phải có chúa, có cuộc sống sau khi chết. Người ta vẫn có thể là người vô thần và đi theo nó. Nó đã tự tạo cho mình 1 tôn giáo như thế và kích thích mạnh như chũ nghĩa xã hội trên toàn cầu giao đoạn vừa qua.
- Cấm suy nghĩ
Trong 1 số cuộc cách mạng xã hội gần đây, người ta tưởng sự thật sẽ được phơi bầy rộng rãi nhưng không, nó vẫn mang nét huyền bí trong nó và đóng vai trò như 1 tôn giáo, 1 sự bí ẩn trong nội bộ nước Nga. Họ đã hình thành 1 điều cấm, đó là cấm suy nghĩ trong nội bộ đất nước họ. Việc từ bỏ bản năng là then chốt trong các tôn giáo thiêng (như kito giáo), cnf từ bỏ sự thật và tư duy là đặc trưng của các tôn giáo thế tục. Điều cấm suy nghĩ là 1 sự tiêu cực vì nó loại trừ mọi câu hỏi, mọi suy tư, mọi nghiên cứu.
- Sự sùng bái người cha
Dưới ảnh sáng của giả thuyết totem, hình thức của các tín ngưỡng, logic của chúng được quy định bởi 2 thực tế: sự thần thánh hóa người cha và sự tái sinh imago của ông ta. Được hóa thành vị thần thực sự của dân chúng, 1 vị thần mang tính huyền thoại và không thể sai lầm, ông ta che chở cho họ và họ cúi rạp trước ông ta. Đồng thời ông ta làm sống lại tất cả những mối ràng buộc và những sự đồng nhất hóa đã xảy ra trong quá khứ, hồi sinh những vị mà mỗi người nhìn về với sự hoài niệm thống thiết.
Kết luận: Thời đám đông toàn cầu
Tâm lý học đám đông đối lập với dân chủ và ca ngợi quyền uy của 1 cá nhân đối với đa số. Quyền uy không bị kìm hãm này ta đã thấy trong hiện thực. Những con người bị giết bởi mệnh lệnh, bởi sự sợ hãi, bởi lòng trung thành, cả dân tộc bị dìm trong câm lặng, luật pháp lỏng lỏe, mọi quyền về sự thật bị biến mất, người vô tội thành có tội, người tụ do bị biến thành tù nhân do tôn giáo áp đặt,…
Tâm lý học đám đông cũng đặt ra câu hỏi rất khó trả lời là tại sao quyền lực của người cầm đầu lại làm chúng ta phẫn nộ đến thế? Trong điều kiện bình thường tại sao chúng ta lại chấp nhận điều đó. Tâm lý học đám đông có tính khoa học tạm thời, nhưng nó lại mang tính thời sự rất mạnh.