Tâm lý người An Nam: Tính cách dân tộc, tiến trình lịch sử, tri thứ, xã hội và chính trị – Paul Giran
Paul Giran là 1 quan chức trong chính phủ Pháp có nhiều năm làm việc ở Đông Dương và có nhiều nghiên cứu về con người và phong tục, tập quán tại đây. Tư tưởng nghiên cứu của ông có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Gustave Le Bon trong các đánh giá về dân tộc và thuộc địa. Cuốn sách này được viết vào năm 1903.
Người An Nam có sức hấp dẫn không thể kháng cự được với cờ bạc. Cho dù họ không còn gì nữa để chơi liều, họ vẫn chấp nhận đánh cược bằng chính những ngón tay của mình và nhẫn tâm chặt chúng xuống khi bị thua cuộc. Họ sẵn sàng đánh mất gia sản cả đời làm ra trong 1 vài giờ đỏ đen. Mặc dù các điều luật cấm đánh bạc rất hà khắc nhưng hầu như không có tác dụng thực sự với người An Nam. Họ đam mê đánh bạc, đó là thứ dục vọng làm thỏa mãn 1 cách trọn vẹn nhất những chiều hướng của họ về sự buông thả, nhu nhược, lười biếng, mộng tưởng hão huyền… chính là thuốc phiện trong tâm hồn họ.
- Tích cách dân tộc
- Chủng tộc
Người An Nam là đại diện của chủng tộc da vàng. Họ thuộc đại gia đình giống Mông Cổ và có sự tương tự rất lớn với gốc người Trung Hoa và ở phía Nam thì có sự lai với giống người Mã Lai trong khi ở khu vực Bắc Kỳ thì sự thuần chủng nhiều hơn.
Diện mạo người An Nam có sự tương đồng với người giống Mông Cổ: sọ ngắn, vầng trán thấp và gồ, lưỡng quyền nhô cao, hai mắt xếch và nhỏ, mí trên của mắt húp và nặng, lông mày thưa thớt xếch lên, tròng mắt đen, mũi tẹt về phía dưới, tai vểnh, môi daayfm tóc đen, râu cằm và ria mép thưa thớt, chỉ mọc khi lớn tuổi. Làn do thì mầu vàng nhạt. Đại đa số nam giới chiều cao trung bình 1m60, nặng 55kg, nữ giới chiều cao trung bình 1m50 và nặng 45kg. Cư dân ở Bắc Kỳ sẽ cao và nặng hơn cư dân Nam Kỳ 1 chút.
Chủng tộc An Nam có sự sinh sôi nẩy nở rất mạnh mẽ khi 100 phụ nữ Nam Kỳ thường sinh ra 170 trẻ em trong khi ở châu Âu con số này chỉ vào khoảng 20-22 trẻ em cho mỗi 100 phụ nữ. Nhờ tốc độ này dân số Nam Kỳ nhanh chóng bùng nổ và chiếm gần hết khu vực bán đảo Đông Dương trong 1 thời gian ngắn. Người Nam Kỳ cũng có khả năng chịu đựng khí hậu khắc nghiệt tốt mặc dù tuổi thọ bình quân thấp. Trẻ em thì sớm dậy thì và thường kết hôn sớm ở tuổi khoảng 13-15 tuổi.
Những người sọ ngắn như người An Nam thường sẽ ôn hòa, chăm chỉ, thanh đạm, thông minh, cẩn trọng, không phó mặc cho sự may rủi, hay bắt chước, bảo thủ, nhưng lại không có sáng kiến. Họ thường gắn bó với quên hương, phong tục, tập quán. Họ rất dễ bị dẫn dắt và hòa vào đám đông 1 cách bị động và phó mặc cho kẻ khác cai trị họ, ý chí nhu nhược, họ được phú cho tinh thần của bầy đàn, tinh thần quần thể.
Người An Nam có rất nhiều điể giống với người miền Nam Trung Quốc như các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến. Các nét đặc điểm này là rất giống nhau và làm người ta liên tưởng rằng họ có chung nguồn gốc giống lòi với nhau dù đã trải quan hơn 2.000 năm. Nhưng người miền Nam này luôn mang trong mình mong muốn tự chủ, độc lập cao độ và hay chống đối lại với các sự áp bách của miền Bắc.
Người Giao Chỉ là những người gốc bản địa tại và sống ở các khu vực núi rừng ở Bắc Kỳ. Khi mới bắt đầu có nền văn mình thì họ bị Trung Hoa đô hộ hơn 10 thế kỷ và quá trình lai tạo giữa đàn ông Trung Hoa với phụ nữ bản địa diễn ra trong 1 thời gian dài tạo ra sự lai tạo cho người dân khu vực này mang nhiều nét tính cách giống người Trung Hoa. Tới thế kỷ thứ 10 họ độc lập và dần chiếm lĩnh khu vực Champa và tiếp tục có sự lai tạo với người gốc Mã Lai ở đây. Những người An Nam hậu duệ vẫn mang trong mình nét đặc trung khi ngón chân cái tách khỏi hẳn 4 ngón còn lại ở bàn chân.
- Môi trường
Tính cách của 1 dân tộc là hiệu ứng của 2 nguyên nhân song hành: cấu tạo sinh lý của dân tộc đó và sự thích nghi của nó với những môi trường khác nhau. Yếu tố khí hậu nhìn chung có ảnh hưởng ít hơn và không phải là yếu tố quyết định để hình thành tính cách của 1 dân tộc.
Khu vực Đông Dương này có khi hậu không đồng nhất khi Nam Kỳ là khí hậu nóng bức, còn Bắc Kỳ lại là khí hậu bán nhiệt đới. Nhìn chung phân thành mua mưa và mua khô với nhiệt độ nóng và độ ẩm quá mức.
Người An Nam sống trong hoàn cảnh sống bẩn thỉu, quần áo càng ít giặt càng tốt, thường mầu nâu đất, ăn uống đạm bạc đơn giản và rất thiếu thịt. Cuộc sống chủ yếu đói rét, mặc không đủ ấm áp vào mùa đông, hay đi chân đất đi lại. Họ chấp nhận làm lụng cực nhọc với sự cam chịu cao độ.
Người An Nam không nổi trội nhờ những phẩm chất về năng lượng, sáng tạo, về năng lực trí tưởng tượng hay sự cao cả của tinh thần. Mọi thứ của họ đều ở mức trung bình. Có thể nói họ là những người vô cảm và trơ lì chẳng hề có nhu càu vĩ đại, cũng chẳng có ham muốn thực sự, và do đó là 1 dân tộc hạnh phúc, mặc dù đó chỉ là niềm hạnh phúc mang tính thụ động.
Người An Nam mang nhiều nét tương đồng với người Trung Hoa nhất, bên cạnh đó có 1 phần nhỏ mang nét tính cách của người Mã Lay, đó la những người ở đất nước Champa mà người An Nam đã chinh phục được trong các thế kỷ trước và đồng hóa vào dân tộc An Nam.
- Tâm hồn An Nam
Cảm nghĩ của người An Nam được biểu thị ở góc độ của sự ích kỷ rất thuần túy. KHông hề có những nhiệt huyết hào sảng, tầm lòng quảng bác, lòng chi rôm nỗi riêng, khô héo, méo mó. Họ không có khả năng quan niệm những ý tưởng quá trừu tượng, tinh thần của họ chỉ có thể vận dụng được khi có sự hiện diện của những chủ thể có thực, người An Nam không có năng lực để cảm nhận những cảm nghĩ quá phức hợp. Các ý tưởng của họ chỉ quẩn quanh trong khuôn khổ gia đình, họ không biết cách nào để vượt qua 1 vòng hạn hẹp.
Đặc trung về cảm tính của người An Nam là sự dử dung thì sự ù lì là đặc trưng về ý chỉ của họ. Người An Nam hiền hòa và tĩnh lặng, họ hiếm khi bộc lộ ra sự bồn chồn và không gây nên những hành vi bốc đồng, những bạo hành đột ngột. Điều này chủ yếu do họ là kiểu người bị uể oải hơn là tính cách ôn hòa đích thực. Vì bên trong họ nuôi dưỡng những oán trách cay độc, nhưng ham muốn báo thù dai dẳng, họ có những hình phạt trả thù rất tàn khốc.
Người An Nam cũng giống người Trung Hoa rất hăng say lao động, chăm chỉ làm việc. Nhưng người An Nam làm việc với thái độ không hào hứng, nhất là khi họ không bị thúc bách bởi nhu cầu hay khi họ không làm việc cho chính bản thân mình.
Người An Nam không có sự kiên trì, sự hoạt động, sáng kiến. Họ chỉ hào hứng được ở giai đoạn đầu và nhanh chóng mất đi sự hào hứng đó trong 1 thời gian ngắn và quay sang chán ngán lao động, bỏ mặc mọi việc. Họ chỉ quay lại làm việc nghiêm túc nếu bị dồn vào hoàn cảnh khốn cùng. Họ thường xuyên chỉ lao động đủ ở mức tối thiểu. Nếu họ kiếm đủ tiền để sống, họ sẽ lập tức dừng không lao động nữa và chỉ quay lại làm việc sau khi đã tiêu hết tiền đã kiếm được trước đó.
Họ ưa thích các công việc được vạch sẵn dự trù từ trước với 1 sự rủi ro tối thiểu, đòi hỏi nỗ lực ít nhất. Vì vậy, họ thường chọn công việc làm công ăn lương thay vì tự chủ kinh doanh, họ ưa thích các công việc công chức quan lieu và nó đã có sẵn trong tâm hồn họ. Họ cũng ưa thích học tập theo các khuôn phép cũ, không cần sự sáng tạo hay đổi mới gì cả. Họ có sự phục tùng mạnh mẽ với những người có quyền uy dù chỉ là quyền uy rất nhỏ. Họ thường xuyên quỳ lạy người khác dù là những người chẳng có mấy quyền uy thực tế khác biệt với lối cư xử của người châu Âu hiện tại đề cao phẩm giá con người.
Người An Nam có sức hấp dẫn không thể kháng cự được với cờ bạc. Cho dù họ không còn gì nữa để chơi liều, họ vẫn chấp nhận đánh cược bằng chính những ngón tay của mình và nhẫn tâm chặt chúng xuống khi bị thua cuộc. Họ sẵn sàng đánh mất gia sản cả đời làm ra trong 1 vài giờ đỏ đen. Mặc dù các điều luật cấm đánh bạc rất hà khắc nhưng hầu như không có tác dụng thực sự với người An Nam. Họ đam mê đánh bạc, đó là thứ dục vọng làm thỏa mãn 1 cách trọn vẹn nhất những chiều hướng của họ về sự buông thả, nhu nhược, lười biếng, mộng tưởng hão huyền… chính là thuốc phiện trong tâm hồn họ.
Người An Nam cũng tương tự như những người châu Á khác. Họ có sự phong phú về chế tác trong những mê tín tôn giáo, những truyền kỳ lịch sử nhưng lại rất nghèo nàn về trí tưởng tượng bộc lộ qua thi ca, văn học, qua các hình thức nghệ thuật và khoa học còn rất đơn sơ của mình. Nó như thể là 2 trí tuệ khác hẳn nhau cùng tồn tại.
- Sự tiến hóa của dân tộc An Nam
- Sự tiến hóa lịch sử
Lịch sử dân tộc An Nam chứng kiến các chuộc chiến tranh nội bộ dai dẳng và các thủ lĩnh tại đây đã không biết cách thống nhất để chống lại kẻ thù chung nên khi Triệu Đà dẫn quân xâm lược họ đã thất bại và chịu cảnh đô hộ hàng ngàn năm. Kể từ khi giành được độc lập năm 968, họ cũng liên tục gánh chịu các cuộc nội đấu, thanh trừng nội bộ tàn khốc và rất hiếm khi được hòa bình trong suốt chiều dài lịch sử. Các cuộc chiến của dân tộc An Nam chủ yếu mang ý nghĩa tự vệ và thụ động. Họ thường xuyên bùng nổ, nổi dậy nhưng không duy trì được sự bền bỉ.
Khi đất nước bị xâm lược, miễn là kẻ xâm lược còn cho phép họ kiếm kế sinh nhai, thờ cúng tổ tiên, có an bình trong làng xã thì họ sẽ không quan tâm nhiều tới việc ai đang là người chủ đất nước. Sự đồng tâm hiệp lực chỉ tồn tại trong 1 thời gian ngắn khi nổi dậy, ngay sau khi chiến thắng mọi thứ sẽ tan ra nhanh chóng. Họ có tinh thần làng xã nhưng không có mấy tinh thần về tổ quốc đất nước.
- Sự tiến hóa trí tuệ
Cuộc sống của người An Nam rất tồn tệ. HỌ mặc những cái áo phong phanh như áo tơi, ở trong nhà trát đất ven các con song và rạch bằng tre lứa. Chỉ có các nhà giầu có trong thành thị mới có nhà kiên cố. Di chuyển bằng đường sông với các thuyền bé bằng tre và có chỗ ở trên thuyền vô cùng chật hẹp.
Công cụ lao động của thợ vô cùng thô sơ. Các xe ngựa, xe cút kít là các thành tựu lớn nhất ở đây. Hoạt động nông nghiệp là hoạt động chính trong cả nước vẫn duy trì như hàng ngàn năm trước mà không có sự tiến bộ nào về khoa học kỹ thuật. Việc buôn bán thương mại đường biển tại An Nam bị Trung Hoa khốn chế và bế quan tỏa cảng giống chính sách Trung Hoa và cơ bản chủ yếu giao dịch giữa An Nam – Trung Hoa là chủ yếu.
Tác giả đánh giá trình độ phát minh của người An Nam ở mức tầm thường, nền cong nghiệp tầm thường, ngôn ngữ cũng ở mức tầm thường. Ngôn ngữ, văn thơ bắt trước theo Trung Hoa với các từ ngữ đơn giản tượng hình, văn phong rối rắm, lặp, láy phức tạp. Nghệ thuật của người An Nam về cơ bản mới dừng ở các hình thức sơ khai. Lồi hành văn lặp lại giữa các tác phẩm, các tác phẩm điêu khắc thường lặp lại mọi nơi, bạn đã ngắm 1 ngôi chùa thì cơ bản các ngôi chùa khác cũng tương tự với các pho tượng, các con rồng,…
- Sự tiến hóa xã hội và chính trị
Tôn giáo ở người An Nam là loại tôn giáo sơ khai khi loài người chưa tiến hóa. Đó là tín ngưỡng thờ quỷ thần, tín ngưỡng tin vào hồn vía, vào 1 sự hiện hữu thứ nhì trong 1 cõi khác hoặc ngay trên cõi thế gian này. Loại tôn giáo này khác với các tôn giáo hiện nay như đạo kito, đạo phật,… và do vậy ở An Nam các việc truyền đạo kêu gọi gia nhập các tôn giáo rất ít khi diễn ra. Người ta gán cho các vật vô tri các năng lực siêu nhiên và thờ phụng chúng như lửa, đất, nước,… và thờ phụng nó. Kể cả các loài động vật cũng được coi là những sinh vật có lý trí và cao cả đầy quyền uy. Các nghi thức cho người chết, phong tục đốt các vàng mã, quy định về việc hỏa táng cho người chết, đi thăm mộ vào khi chuẩn bị năm mới, các phong tục thờ túng tổ tiên, giỗ tổ tiên…Tôn giáo của người An Nam thờ tổ tiên của họ và mỗi gia đình có sự thờ phụng khác nhau. Ở đây rất khác thiên chúa giáo thờ chúa Jesu, đạo phật thờ Đức Phật, đạo islam thờ thượng đế,… người đàn ông trong mỗi gia đình cũng là thầy tế để thờ tụng. Các nấm mồ thường chôn ở trên thửa ruộng của chinh gia đình đó thay vì tập trung lại như ở phương tây.
Gia đình An Nam là 1 đoàn thể mang tính chất tôn giáo. Do đó, nó tuyệt đối khén kín, để nhập vào đó cần phải hịu qua 1 sự kiểm tra đích thực. Cô dâu chỉ có thể được tham gia vào gia đình này sau nghi thức kết hôn. Đảm bảo cho sự trường tồn của việc thờ cúng tổ tiên đó là mối quan tâm chủ chốt trong những hành vi của đời sống An Nam. Hôn nhân, với vai trò hành vi quan trọng nhất trong số đó, nó đảm bảo duy trì nòi giống để tiếp tục việc hương khói trong gia đình. Từ đó hiện tượng trọng nam khinh nữ ra đời khi gia đình nào cũng cần có con trai để trong coi hương khói bàn thờ tổ tiên. Việc đa thê cũng từ đó sinh ra để mong muốn người đàn ông trong gia đình phải có con trai bằng mọi cách có thể.
Việc thờ cúng này là tín ngưỡng trọng yếu vì người An Nam đều tin rằng các linh hồn sẽ được ấm áp, đầy đủ khi được hương khói đầy đủ và các linh hồn sẽ bị bỏ rơi sẽ đắm chìm trong đau khổ. Việc thờ cúng tổ tiên sẽ giúp các linh hồn tổ tiên phù hộ cho con cháu thờ cúng họ.
Nền luân lý An Nam được vay mượn từ nền luân lý Trung Hoa , họ được dậy về những bổn phận gia đình và trong những thứ đó trước tiên là lòng hiếu thảo. Các tội ác chống lại mẹ cha là những thức cực kỳ hiếm khi xảy ra ở xã hội An Nam. Tôn kính hiếu thảo, tôn kính tổ tiên, tôn kính quá khứ là những bổn phận chính yếu mà nền luân lý An Nam ấn định. Họ cần làm trọn bổn phận với bản thân, đối với cha mẹ, bằng hữu và những người khác.
Các phong tục tập quán dù bị ảnh hưởng bởi Trung Hoa nhưng vẫn có những nét riêng của An Nam. Nhưng riêng các quan niệm về tổ chức chính trị thì đều mang nặng phong cách của Trung Hoa. Chủ thuyết nho giáo của Khổng Tử đã thực sự có sức ảnh hưởng lớn nhất với chính trị An Nam. Nó mang tính chất giáo huấn về luân lý, giúp cai trị hiệu quả con người.