Tâm lý đám đông và phân tích cái tôi – Sigmund Freud
Sigmund Freud là ông tổ ngành phân tâm học. Ông bác sỹ thần kinh người áo và có rất nhiều nghiên cứu sâu về vấn đề tâm lý học đám đông và các lý thueyets phân tâm học của ông đóp góp rất lớn về sau cho các giải pháp trị liệu tinh thần.
- Giới thiệu
Tâm lý học cá nhân và tâm lý xã hội người ta thường nghĩ rằng có sự độc lập với nhau. Nhưng thực tế mỗi cá nhân luôn luôn bị các quan hệ xã hội tác động lên bản thân mình theo nhiều cách khác nhau. Trong tâm trí của cá nhân thì 1 các nhân khác luô luôn hoặc là thần tượng, hoặc là 1 đói tượng, 1 người hỗ trợ hay kẻ thù và vì vậy mà ngay từ khởi thủy, khoa tâm lí cá nhân đã đồng thời là khoa tâm lí xã hội theo nghĩa thông dụng nhưng rất đúng của từ này.
Trong mối quan hệ của cá nhân với bố mẹ, anh chị em, gia đình, thầy thuốc,… thì họ chỉ bị tác động bởi 1 giới hạn người hay 1 nhóm người hạn chế. Trong khi tâm lí dám đông thì thường liên hệ tới ảnh hưởng đồng thời của 1 số lớn người đối với 1 cá nhân mà anh ta có quan hệ nào đó với nhóm lớn người này. Môn tâm lí đám đông nghiên cứu từng cá nhân riêng biệt khi họ là thành viên của 1 bộ lạc, 1 dân tộc, 1 đẳng cấp, 1 thể chế xã hội nhất định hay như 1 nhân tố cấu thành của 1 đám đông tự tập lại vì 1 mục đích nào đó.
- Tâm lí đám đông (Theo Gustave Le Bon)
Trong Tâm lí học đám đông của Le Bon đã mô tả chính xác hiện tượng của tâm lí đám đông. Dù các cá nhân hợp thành nó như thế nào, dù đời sống, nghề nghiệp, tính cách hay trí tuệ của những cá nhân ấy giống nhau hay khác nhau ra sao, thì chỉ riêng việc họ chuyển biến thành đám đông, họ đã có 1 thứ tâm hồn tập thể làm cho họ cảm nhận, suy nghĩ và hành động theo 1 cách hoàn toàn khác với cách mà 1 cá nhân riêng lẻ vẫn cảm nhận, suy nghĩ và hành động. Có những tư tưởng, tình cảm chỉ nảy sinh hay chỉ biến thành hành động ở những cá nhân khi cá nhân ấy nằm trong đám đông. Đám đông tâm lí là 1 tồn tại tạm thời, hợp thành bởi những yếu tố dị loại chỉ gắn kết với nhau trong 1 thời đoạn, chúng giống như những tế bào cấu thành 1 cơ thể sống nhờ nối kết với nhau thành 1 sinh vật mới, biểu lộ những tính cách rất khác biệt với tính chất mà riêng từng tế bào đã có.
Chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác nhau của 1 người khi họ ở 1 mình và khi họ ở trong đám đông. Nhưng lý giải nguyên nhân thật sự phía sau hiện tượng đó thì không dễ dàng. Đời sống ý thức chỉ đóng 1 vai trò nhỏ hơn so với đồi sống vô thức của mỗi người. Phần lớn những hành động hằng ngày của chúng ta chỉ là hậu quả của những động cơ ẩn giấu mà ta khong nắm được. Thượng tầng kiến thức của từng cá nhân khác nhau đã hoàn toàn bị xóa nhòa và cái nền tảng vô thức đồng đều ở tất cả mọi người mới biểu hiện ra khi họ ở trong đám đông.
Con người của đám đông là con người có đặc trưng trung bình. Có 3 nguyên nhân gây ra điều này theo Le Bon (Hiện nay đã có các giải thích nguồn gốc đúng hơn, Le Bon chủ yếu đưa ra các biểu hiện bên ngoài đúng nhưng chưa giải thích được bản chất tâm lí ẩn sau nó).
- Nguyên nhân thứ nhất: là cá nhân trong đám đông đã có được, chỉ nhờ số lượng đông, 1 ý thức về sức mạnh vô địch cho phép nó nương theo những bản năng, mà nếu chỉ 1 mình, cá nhân sẽ tất nhiên kìm nén. Cá nhân càng ít có xu hướng kìm nén, nếu đám đông là vô danh, do đó là vô trách nhiệm, ý thức về trách nhiệm, điều luôn ngăn giữ các cá nhân, đã biến mất hoàn toàn. Sự biểu hiện này khi cá nhân trong đám đông không có gì mới, nó chỉ thể hiện ra cái vô thức chứa đựng toàn bộ những điề xấu xa của tâm hồn con người.
- Nguyên nhân thứ 2: sự lây nhiễm, cũng can thiệp để xác định sự biển hiện những tính cách đặc thù của đám đông, đồi thời xác định các định hướng của chúng. Sự lây nhiễm là hiện tượng dễ nhận thấy, nhưng nó không được giải thích thấu đáo trong Le Bon. Ông gắn nó với hiện tượng hôi miên. Trong đám đông, mọi tình cảm, mọi hành động đều có tính lây nhiễm, và lây nhiễm đến mức cá nhân rất dễ dàng hi sinh quyền lợi riêng cho quyền lợi tập thể. Đó là 1 khả năng rất trái ngược với bản tính cá nhân, mà con người hầu như chỉ làm được khi nó là bộ phận của 1 đám đông.
- Nguyên nhân thứ 3: Tính dễ bị gợi ý, đây là nguyên nhan quan trọng nhất mà tính lây nhiễm chỉ là 1 hệ quả của nó. Tính này được thực hiện nhờ năng lực thôi miên.
Việc biến mất của nhân cách có ý thức, sự ưu trội của nhân cách vô thức, sự định hướng những tình cảm và tư tưởng theo cùng 1 chiều qua con đường gợi ý và lây nhiễm, khuynh hướng muốn biến đổi ngay lập tức những ý tưởng gợi ý thành hành động, đó là những đặc tính chủ yếu của cá nhân nằm trong đám đông. Cá nhân không còn là bản thân mình nữa. Anh ta đã thành 1 thứ người máy không được ý chí chỉ đạo nữa.
Le Bon đánh giá về cá nhân tham gia vào đám đông: Anh ra biến mình thành bộ phận của đám đông có tổ chức, con người đã tụt xuống nhiều nấc trong thang bậc văn minh. Đứng tách riêng, có tể đó là 1 cá nhân có văn hóa. Nằm trong đám đông, anh ta là 1 kẻ dã man, nghĩa là 1 kẻ bản năng. Anh ta có tính tự phát, thói bạo lực, tính hung dữ và có cả lòng nhiệt tình, sự anh dung của người nguyên thủy. Anh ta còn có khuynh hướng sáp gần những điều đó, vì anh ta dễ dàng để mình chịu ảnh hưởng bởi những từ ngữ, hình ảnh, những điều mà sẽ hoàn toàn không có tác động tới cá nhân hợp thành đám đông nếu cá nhân đó đứng tách riêng, và vì anh ta đã đều mình bị dẫn đến những hành vi trái ngược với quyền lợi hiển nhiên nhất và những tói quen thường có nhất của mình. Cá nhân nằ trong đám đông là 1 hạt cát giữa vô vàn hạt cát khác mà gió sẽ bốc lên tùy thích.
Tâm hồn tập thể theo Le Bon; Đám đông có thói bốc đồng, tính hay thay đổi và tính dễ kích động. Đám đông luôn phiêu bạt trên những giới hạn vô thức, dễ dàng chịu mọi gợi ý, có mọi sự mãnh liệt về tình cảm riêng của những người không thể cầu viện đến ảnh hưởng của lí trí, không có tinh thần phê phán, đám đông chỉ có thể thuộc về tính cả tin quá mức. Đám đông suy nghĩ bằng hình ảnh, hình này này lại gới ý tới hình ảnh khác. Họ chấp nhận các hình ảnh hiện ra trong tâm trí là thật, giống nhưu trạng thái mơ hồ của giấc mơ.
Đám đông vốn có xu hướng cực đoan nên chỉ những kích động phóng đại mới gây cho nó phân khích mà thôi. Kẻ muốn có ảnh hưởng với đám đông chẳng cần lí lẽ đúng, hắn chỉ cần tạo ra những bức tranh thật rực rỡ, phóng đại và lặp đi lặp lại 1 chuyện là đủ. Đám đông ngoan ngoãn tôn trọng sức mạnh và chẳng mấy ấn tượng với lòng nhân từ mà đối với nó chỉ là 1 hình thức của sự yếu đuối. Họ không dành tình cảm cho người nhu nhược, họ ưa thích các bạo chúa, kẻ độc tài mạnh mẽ, quyết liệt, làm họ lo sợ, tông trọng, sùng bái,…tâm hồn đám đông cơ bản là đồng nhất với tâm hồn của người nguyên thủy.
Đám đông không bao giờ khát khao chân lí. Đứng trước những điều hiển nhiên làm đám đông không hài lòng, nó ngoảnh mặt đi, nó thích thần thánh hóa sự sai lầm, nêu ssai lầm đó lôi cuốn nó. Không có khả năng suy nghĩ, suy luận, đám đông không biết tới cái không thể có thực. Các sự vật không thể có thực nhất thường là những điều ấn tượng nhất lôi cuốn họ nhất.
- Những quan điểm khác về tâm lí đám đông
Các ý kiến của Le Bon về đám đông cũng rất nhiều đã được nhắc đến từ xưa khi mô tả các đám đông 1 cách thù địch theo cách ông nói. Chỉ là các ý tưởng của ông đầy đủ hơn so với các ý tưởng trước kia.
Trong thực tế, đám đông cũng có nhiều lúc làm các việc tốt đẹp chứ không phải chỉ toàn các ý tưởng tiêu cực. Họ đã sáng tạo ra các quy phạt đạo đức xã hội, ngôn ngữ, dân ca,… và đó là trí tuệ cả đám đông hướng tới điều tốt đẹp hơn thay vì chỉ toàn bạo lực và phá hủy.
Sau khi công nhận sự vô tổ chức của đám đông theo kiểu Le Bon, Mc Dougall đã đưa ra đám đông có tổ chức với 5 điều kiện cơ bản sau:
- Nó có 1 số người nhất định tham gia vào đám đông trong 1 thời gian tương dối dài, và có 1 số người luân phiên nắm giữ 1 số vai trò
- Cá nhân tham gia có 1 số hiểu biết nhất định về bản chất, chức năng, hoạt động và đoi fhoir của đám đông và vì vậy mà họ có tình cảm với toàn thể đám đông đó
- Đám đông có liên hệ với những đám đông tương tự, nhưng vẫn khác với nó ở 1 số điểm để tạo ra sự cạnh tranh
- Đám đông có 1 số truyền thống, phong tục, định chế áp dụng cho quan hệ giữa các thành viên cấu thành
- Trong đám đông có sự phân công, thể hiện trong việc phân thành nhóm và chia công việc cho từng người.
Cách Mc Dougall miêu tả là đã cố gắng tổ chức các đám đông để mang trong mình tư duy như 1 các nhân độc lập, giúp đám đông xóa đi sự san bằng khi ở trong đám đông trước kia.
- Ám thị và libido
Ám thị trước Freud đều cho rằng là hạt nhân thấp nhất để giải thích hiện tượng lây nhiễm giữa các cá nhân với nhau trong đám đông và giải thích cho hành động giống nhau của họ khi họ ở trong đám đông. Nhưng bản thân Ám thị là gì và vận hành như nào thì không ai có thể giải thích rõ ràng được.
Libido là danh từ mượn của lí thuyết về tình cảm. Nó chỉ năng lượng của tát cả những dục vọng mà từ tình yêu bao hàm. Năng lượng ấy có thể được xem như thuộc loại định tính, mặc dù hiện nay chưa đo lường được. Tình yêu ở đây là mọi cái từ tình yêu nam nữ (giới tính), tới tình yêu chính mình, yêu cha mẹ, con cái, tình bạn và tinh yêu nhân loại, hay tình yêu 1 sự vât, sự việc cụ thể nào đó. Từ yêu đó được tách ra thành các ham muốn tình ái (đây không chỉ ham muốn tình dục đơn thuần).
Từ đó, Freud đã giả định rằng các mối liên hệ tình ái (liên hệ tình cảm) là bản chất của linh hồn tập thể. Đây là sự đột phá vì trước ông chua ai đưa ra khái niệm nguồn gốc sâu hơn của ám thị là từ đâu mà có. Lực để liên kết đám đông lại với nhau từ nay được cho là do tình yêu theo quan điểm của ông.
- Giáo hội và quân đội: 2 đám đông nhân tạo
Về mặt hình thái thì đám đông có thể phân loại thành rất nhiều loại khác nhau. Có những đám đông tồn tại trong 1 thời gian ngắn, có những đám đông gồm những thành viên tương đồng, có đám đông gồm những thành viên tương dị, có đám đông tự nhiên, có những đám đông nhân tạo chỉ tụ tập vì bị thúc bách, có những đám đông đơn giản, có những đám đông đã được phân công, có tổ chức cao. Có 2 đám đông có tổ chức cao, tồn tại lâu dài, tụ tập do bị thúc bách là giáo hội – tập hợp của các tín đồ và quân đội. Cả giáo hội và quân đội đều không thể tự động gia nhập,việc rút ra khỏi tổ chức như thế thường bị đàn áp hoặc phải có 1 số điều kiện nhất định.
Trong giáo hội (tiêu biểu giáo hội Công giáo) cũng nhưu trong quân đội vẫn tội tại 1 niềm tin sai lầm rằng người cầm dầu giáo hội là Jesus – Christ, còn trong quân đội là vị Tổng tư lệnh – yêu thương tất cả các thành viên trong đoàn thể như nhau. Mọi điều khác đều phụ thuộc vao ảo tưởng này, nếu ảo tưởng này biến mất thì cả quân đội và giáo hội đều tan rã, hoàn cảnh bên ngoài chỉ làm cho việc tan rã xảy ra nhanh hay chậm hơn mà thôi. Cả 2 loại đám đông nhân tạo này, mỗi cá nhân đều có mối liên hệ libido, 1 mặt với lãnh tụ (Jesus – Christ, Tổng tư lệnh) và mặt khác, với những người khác trong đám đông.
Khi 1 cá nhân hoảng loạn thì hắn chỉ lo cho bản thân,điều đó chứng tỏ rằng mọi mối liên hệ tình cảm của hắn, những mối liên hệ từng giúp giảm thiểu ỗi sợ hãi, đã chấm dứt. Vì hắn phải 1 mình, đơn độc, đối diện với hiểm nguy thi dĩ nhiên là hắn phóng đại thêm mối nguy hiểm. Hoản loạn xảy ra do sự tan rã cơ cấu libido của đám đông và là phản ứng phải có đối với sự tan rã ấy, chứ không phải ngược lại là những liên hệ libido của đám đông bị tan ra là do hoảng loạn trước nguy hiểm.
- Những vấn đề mới và những hướng tìm tòi mới
Nếu trong đám đông có sự giới hạn lòng ích kỉ ngã ái thì đấy là bằng hcuwngs không thể chối cãi rằng thực chất của đám đông chính là những liên kết mới được xác lập giữa các thành viên của nó với nhau. Mối quan hệ dục tính thuần túy ban đầu trong phân tâm học đã thay đổi trong đám đông. Ta mô tả chúng như là 1 mức độ yêu đương nhất định và nhận xét rằng chúng đã hạn chế 1 phần cái “tôi”. Sự liên kết tình cảm khác nữa là hiện tượng đồng nhất hóa.
- Đồng nhất hóa
Phân tâm học cho rằng đồng nhất hóa là biểu hiện sớm nhất của liên kết tình cảm với người khác. Đứa bé trai rát thích cha nó, nó muốn được trở thành người như bố nó, nó muốn thay thế bố nó trong mọi hoàn cảnh. Người cha là nhân vật lí tưởng của nó. Đồng thời với quá trình đồng nhất hóa với cha, đứa bé bắt đầu coi mẹ là đối tượng libido. Như vậy là đứa bé bộc lộ 2 liên kết khác nhau về mặt tâm lí: với mẹ là khao khát dục tính còn với cha là sự đồng nhất hóa với nhân vật lí tưởng. 2 mối quan hệ này cùng tồn tại bên cạnh nhau 1 thời gian mà không ảnh hưởng tới nhau, không gây xáo trộn gì cho nhau.
Trong đồng nhất hóa, cái tôi đôi khi sao chép người nó yêu, đôi khi lại sao chép người nó ghét. Sự đồng nhất hóa cũng chỉ là 1 phần và không hoàn toàn. Sự đồng nhất hóa với 1 người khong phải là đối tượng dục tính chính là nguồn gốc tạo ra mối dây tình cảm trong đám đông. Đó là sự đồng nhất hóa trên cơ sở 1 cái chung quan trọng, và ta giả định cái chung này là người cầm đầu.
Từ đồng nhất hóa qua bắt bước đến hội nhập tình cảm nghĩa là hiểu được cái cơ chế, nhờ đó, chung ta có thể tiếp xúc với tâm hồn của tha nhân. Hậu quả của đồng nhất hóa là người ta hạn chế thái độ thù nghịch với người mà người ấy đồng nhất với, người ta bảo vệ, người ta giúp đỡ người mà họ đồng nhất với.
- Yêu đương và thôi miên
Cái tôi trong chúng ta có tình yêu mãnh liệt và phi dục tính với 1 đối tượng khác, đối tượng mà nó gần với cái tôi lí tưởng trong mỗi người và họ dùng tình yêu của mình cho người khác để đi vòng tới việc có cái tôi lí tưởng trong bản thân mình. Từ cảm giác yêu đương này tới cảm giác thôi miên là khoảng cách khá gần nhau. Những điểm giống nhau là rất rõ ràng: khiêm tốn phục tùng, nhu thuận, không có thái độ phê phán với ông thầy thôi miên cũng như với người yêu dấu, không còn sáng kiến riêng. Ông thầy thôi miên đã chiếm chỗ của cái tôi lí tưởng.
Trong trạng thái thôi miên, tôi tuân theo tất cả những gì ông thầy đòi hỏi và ra lệnh. Cái tôi lí tưởng đã coi mọi cảm giác là thực và không còn kiểm nghiệm thực tế theo chức năng vốn có của nó nữa. Thôi miên là sự hình thành đám đông. Thôi miên giữ vai trò trung gian nữa đám đông và tình yêu.
- Bản năng bầy đàn
Thôi miên bản thân nó cũng là 1 hoạt động tương đối bí ẩn và chưa thể nắm chắc nó 1 cách rõ ràng. Các mối liên kết tình cảm của đám đông chỉ ra rằng: cá nhân thiếu độc lập và sáng kiến, hành động a dua, có thể nói là sự thoái hóa cá nhân thành 1 đơn vị của đám đông. Đám đông xét về tổng thể còn thể hiện ra đặc điểm: hoạt động trí tuệ thấp, dễ bị kích động, không có khả năng tự chế và trì hoãn, có xu hướng vượt giới hạn trong biểu lộ tình cảm và chuyển những tình cảm này thành hành động. Đây là các đặc điểm thoái hóa giống như về với các đặc tính của trẻ con và người nguyên thủy.
Trong xã hội loài người có quá nhiều hiện tượng phụ thuộc, có quá ít sự độc đáo và lòng can đảm riêng, và mỗi người đều bị tâm lí đám đông chi phối rất mạnh, biểu hiện trong đặc điểm về chủng tộc, trong các thành kiến giai cấp, dư luận xã hội,…ảnh hưởng ám thị càng tăng lên khi nó không bị là ám thị từ người cầm đầu mà còn từng thành viên trong đám đông ám thị lẫn nhau. Người là con vật sống thành bầy, người là con vật thuộc bầy, thành viên của bầy, do 1 con chúa dẫn dắt.
- Đám đông và bầy đàn nguyên thủy
Giả thuyết của Freud: Ông cho rằng bầy đàn nguyên thủy sống với nhau quần cư và họ bị người cha tiết chế các dục vọng, họ có hành xử giống nhau vì đều không có tài sản chung, ăn chung và sống chung trong 1 ngôi nhà. Nhưng họ bị các quy định tiết chế về dục tích kiểm soát và người cha với quyền lực của mình đã đẩy các người con vào 1 bầy đàn với nhau. Ông ta thì không yêu mến hay sợ hãi ai, ông ta chỉ yêu chính bản thân mình. Nhưng người con lại bị phụ thuộc vào tình yêu, sợ hãi người cha, và họ khi bị ức chế dục vọng đã tạo thầy 1 nhóm bầy đàn với nhau giết chết người cha, rồi 1 người con trong đó lại tái sinh hình ảnh người cha khi chiếm địa vị của người cha và đưa hình ảnh người cha trở lại thành bất tử và trở thành thủ lĩnh mới của đám đông với dục vọng được phát tán ra bên ngoài toàn bộ.
Ý chí của từng cá nhân quá yếu, hắn không dám hành động. Chỉ có những xung lực tập thể là được thực hiện, chỉ tồn tại ý chí tập thể, không còn ý chí cá nhân, ý niệm không thể biến thành ý chí nếu người ta không thấy rằng nó đã được tăng cường nhờ phổ biến khắp mọi nơi. Sự yếu ớt của ý niệm là do liên lạc tình cảm rất mạnh giữa mọi người với nhau. Ta có cảm giác là đám đông là 1 bầy nguyên thủy tái sinh. Giống như 1 người nguyên thủy có thể tái sinh trong mỗi cá nhân, từ mỗi đám đông có thể tái tạo bầy ô hợp nguyên thủy. Vì vậy, tâm lí đám đông là tâm lí cổ xưa nhất của loài người.
Đặc điểm đáng sợ, đầy ám ảnh của đám đông mà ta thấy trong các biểu hiện do ám thị có thể được coi là có xuất xứ từ bầy ô hợp nguyên thủy. Lãnh tụ của dám đông vẫn là người cha tiền sử, người ta sợ hắn, đám đông muốn được điều khiển bởi 1 quyền lực vô giới hạn, đám đôn gkhao khát 1 người có quyền uy, đám đong khao khát được phục tùng. Ám thị là biểu hiện của trạng thái thôi miên, còn thôi miên lại có nguồn gốc bẩm sinh còn giữ lại 1 cách vô thức từ cội nguồn xa xưa của gia đình loài người.
- Các thang bậc của cái tôi
Có quá nhiều giải thich đánh giá về tâm lí học đám đông và chúng không đồng nhất với nhau nên rất khó để tạo ra được 1 tác phẩm hoàn thiện về lĩnh vực này. 1 cá nhân tham gia vào rất nhiều đám đông khác nhau, họ tạo ra nhiều cái tôi lí tưởng khác nhau. Họ mang trong mình tâm lí chủng tộc, tâm lí của đẳng cấp, tâm lí của tôn giáo, quốc gia,…
Cái tôi vẫn còn giữ lại 1 phần ngã ái của bản thân mình. Người cầm đầu chỉ cần có những tính cách điển hình nhưng thể hiện được 1 cách rõ ràng và sắc nét của các cá nhân hợp thành đám đông, hắn ta phải tạo được cảm giác có uy và không bị ràng buộc về mặt tình cảm, nhu cầu về 1 thủ trưởng đầy sức mạnh sẽ tự tìm đến với hắn, cái nhu cầu đó sẽ trao cho hắn 1 siêu quyền lực mà trước đó có thể hắn cũng không hề kì vọng tới. Bằng cách tự điều chỉnh, tôi lí tưởng của các cá nhân khác sẽ nhập vào bản ngã của hắn và các cá nhân đó, do ám thị, nghĩa là đồng nhất hóa, mà cuốn hút theo hắn.
Sự chia tách cái “tôi” khỏi “tôi” – lí tưởng và vì vậy mà có 2 loại ràng buộc: đồng nhất hóa và thay thế tôi lí tưởng bằng đối tượng. Với cấc bệnh nhân trầm cảm, tâm thần thì họ có sự đồng nhất giữa cái tôi vào cái tôi lí tưởng.